Giãn phế quản dạng hít - Inhaled Pulmonary Vasodilators - SÁCH VỀ MÁY THỞ - THE VENTILATOR BOOK
Chương 18. Giãn phế quản dạng hít - Inhaled
Pulmonary Vasodilators
Áp lực đường thở dương có tác động có
lợi lên chức năng thất trái do làm giảm cả tiền gánh và hậu gánh (áp lực xuyên
thành (transmural pressure) qua tâm thất trái). Tuy nhiên, tại cùng một thời
điểm, áp lực đường thở dương có thể làm tồi hơn chức năng thất phải - bình
thường tuần hoàn mạch phổi có áp lực thấp, bây giờ phải chịu áp lực đáng kể do
máy thở. Co mạch phổi do thiếu oxy cũng làm tăng gánh nặng công việc lên thất
phải. Hầu hết thời gian, điều này không ảnh hưởng đến huyết động quá nhiều, và
bù thêm dịch là đủ để duy trì cung lượng thất phải. Tuy nhiên, ở một vài bệnh
nhân, tăng áp mạch phổi và giảm chức năng thất phải có thể có tác động bất lợi
đáng kể lên cả chức năng tim và phổi.
Giảm chức năng thất phải (RV) và thậm chí suy RV rõ ràng có thể được thấy ở
bệnh nhân ARDS nặng. Nó cũng được thấy với tắc mạch phổi lớn hoặc vừa, nhồi máu
thất phải, và ở bệnh nhân với tăng áp mạch phổi tồn tại trước đó (bệnh phổi tắc
nghẽn mạn tính, ngừng thở khi ngủ do tắc nghẽn, bệnh mô liên kết, tăng áp lực
mạch phổi tiên phát,...). Suy RV có thể đặc biệt khó điều trị - thất phải
thường là cấu trúc với thành mỏng và hoạt động tốt nhất trong điều kiện sức cản
và áp lực mạch thấp. RV khó có thể đáp ứng với tăng đột ngột sức cản mạch phổi
- nó không có khối cơ của thất trái. Thuốc tăng co bóp (inotropy) như milrinone
và dobutamine có thể được sử dụng để “quất vào trái tim”, nhưng tăng cung lượng
tim thường bị vô hiệu hóa bởi sự gia tăng tương ứng trong mức tiêu thụ oxy của
cơ tim. Trong tình huống này, thuốc giãn chọn lọc động mạch phổi có thể hữu
ích.
Thuốc giãn động
mạch phổi thường được sử dụng phổ biến nhất trong điều trị tích cực là nitric
oxide dạng hít (iNO). iNO có thể được cung cấp qua mask hoặc qua ống nội khí
quản và có tác động giãn mạch nhanh trên động mạch và mao mạch phổi. Một ưu
điểm đặc biệt của iNO là nó sẽ chỉ gây ra giãn mạch ở các giường mao mạch phế
nang mà nó chạm tới.
Điều này có tác
động làm cải thiện sự tương xứng thông khí - tưới máu ở những bệnh nhân hạ oxy
máu nặng. Prostacyclin dạng hít có thể cũng được sử dụng và có tác động sinh lý
tương tự. Thuốc giãn mạch phổi dạng truyền tĩnh mạch như prostacyclin và
alprostadil có thể được sử dụng nhưng khuynh hướng có nhiều tác động mạnh hơn đến
chức năng huyết động và thường gây ra tụt huyết áp.
Chưa có nhiều
thử nghiệm lâm sàng về prostacyclin dạng hít, và cơ sở bằng chứng còn hạn chế. iNO
đã được nghiên cứu sâu rộng hơn, và vì vậy thảo luận xa hơn nữa sẽ tập trung
vào việc sử dụng iNO. Điều này không có nghĩa là prostacyclin dạng hít không có
hiệu quả, và nó có thể hoạt động tốt như iNO trong các trường hợp lâm sàng
tương tự. Điều quan trọng cần lưu ý là cả iNO và prostacyclin dạng hít đều
không được FDA chấp thuận để sử dụng cho người lớn bị ARDS hoặc suy thất phải,
và bất kỳ việc sử dụng nào đều ngoài hướng dẫn, chưa được cấp phép (off-label).
Sức hấp dẫn của
thuốc giãn mạch phổi dạng hít là chúng chỉ gây ra giãn mạch chọn lọc trên vùng
phổi mà chúng có thể tiếp cận; chúng khởi phát và hết tác dụng nhanh; chúng có
tác động bất lợi tối thiểu lên huyết động; và không có chất chuyển hóa còn hoạt
tính (downstream metabolites). Trong nhiều năm, điều này được cho là đúng như
vậy. iNO được cho rằng, nó bị bất hoạt ngay lập tức do phản ứng với hemoglobin
trong mao mạch phổi. Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng không phải như vậy. iNO
phản ứng với hemoglobin và dẫn đến hình thành nitrit và S-nitrosohemoglobin.
Nitrit có thể được tái chế trong mô phía hạ lưu thành nitric oxide (NO), No có
thể gây ra giãn mao mạch hệ thống. S-nitrosohemoglobin cũng tạo ra sản phẩm
nitric oxide, đặc biệt trong trường hợp thiếu oxy mô. Bộ đôi giãn mạch và khử oxy có thể dẫn đến
rối loạn chức năng ty thể. Điều này đã được chứng minh trong các thử nghiệm lâm
sàng, rằng việc sử dụng iNO có liên quan đến tỷ lệ cao hơn suy thận.62 Có lẽ,
tác động gây độc của các chất chuyển hóa này không bị giới hạn ở thận, có nghĩa
là các chất chuyển hóa của iNO có thể góp phần vào rối loạn chức năng đa cơ
quan.
Ở bệnh nhân ARDS, iNO có thể cải thiện
oxy hóa thông qua giãn chọn lọc mạch thận. Tuy nhiên, không có nghiên cứu nào
cho thấy lợi ích sống còn với liệu pháp này, và một phân tích tổng hợp gần đây63 với 9
thử nghiệm lâm sàng kết luận rằng, “Nitric oxide không làm giảm tỷ lệ tử vong ở
người lớn hoặc trể em bị hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển, bất kể mức độ hạ
oxy máu”. Lý do thiếu lợi ích dường như đứng trong hàng với các liệu pháp khác
đã được chứng minh là cải thiện quá trình oxy hóa nhưng không giúp sống sót -
rất ít bệnh nhân ARDS tử vong vì giảm oxy máu kháng trị. Tử vong chủ yếu do suy
đa cơ quan, và khả năng các chất chuyển hóa gây độc của iNO có thể gây ra điều
này. Vì vậy, iNO chỉ nên được sử dụng trong ARDS như một liệu pháp cứu cánh
thực sự. Nó có thể hữu ích ở bệnh nhân có tỷ lệ PaO2/FiO2
ít hơn 55 mặc dù điều trị tối ưu và những bệnh nhân không có chỉ định cho các
liệu pháp cứu cánh khác đã được chứng minh là có lợi (tư thế nằm sấp,
ECMO tĩnh mạch - tĩnh mạch).
iNO và
suy chức năng thất phải
Suy chức năng thất phải cấp tính được
điều trị chủ yếu với đổ dịch và hỗ trợ co bóp. Dobutamine và milrinone là 2
thuốc co bóp làm tăng sức co bóp thất phải. Milrinone, một chất ức chế
phosphodiesterase-III, cũng có tính chất giãn mạch trên tuần hoàn phổi.
Levosimendan là một thuốc khác tăng co bóp có tác dụng giãn mạch (inodilator)
nhạy cảm với calci, nhưng nó không được bán trên thị trường ở Hoa Kỳ.
Suy RV thường liên quan đến suy chức
năng phổi và hạ oxy máu vừa đến nặng. Các chiến lược thở máy thông thường sử
dụng mức PEEP cao hoặc tăng áp lực đường thở trung bình (như APRV) có thể làm
trầm trọng thêm chức năng thất phải và tăng áp lực mạch máu phổi. Nitric oxide
hoặc prostacyclin dạng hít có thể được sử dụng để làm giảm sức cản mạch máu
phổi, do đó cải thiện chức năng thất phải và cải thiện trao đổi khí.
Khi bắt đầu thuốc giãn mạch phổi dạng
hít cho suy thất phải, một catheter động mạch phổi hoặc theo dõi áp lực tĩnh
mạch trung tâm nên được đặt. Siêu âm tim (Echocardiography) có thể cũng được sử
dụng để đánh giá sức co bóp và để đo áp lực động mạch phổi, nhưng nó không có
sẵn liên tục và không lý tưởng để điều chỉnh thuốc. Catheter động mạch phổi có
thể đo liên tục áp lực động mạch phổi, cung lượng tim, và SvO2. Nó
cũng có thể được sử dụng để tính sức cản mạch phổi. Điều này rất hữu ích cho
việc phân biệt giữa các tình trạng gây ra tăng áp động mạch phổi và các tình
trạng liên quan đến tăng áp lực tĩnh mạch phổi. Thuốc giãn mạch phổi chọn lọc
có xu hướng hiệu quả hơn so với các loại thuốc trước đây.
Sức cản mạch phổi (PVR)
có thể được tính bằng cách đo áp lực động mạch phổi trung bình và áp lực động
mạch phổi bít ở cuối thì thở ra. Sau đó, sự khác biệt giữa hai phép đo được
chia cho cung lượng tim (L/phút):
PVR
= [mean PAP - PAOP] / [CO]
Một bệnh nhân
với áp lực động mạch phổi trung bình bình thường (20 mmHg), áp lực mao mạch
phổi bít (10 mmHg), và cung lượng tim (5 L/phút) sẽ có sức cản mạch phổi là 2
mmHg.phút/L, hoặc đơn vị Wood. PVR bình thường là 2-3 đơn vị Wood.* Các tình trạng tăng áp lực động mạch phổi trung
bình và áp lực mao mạch phổi bít (suy giảm chức năng thất
trái phổ biến nhất nhưng còn có bệnh van động mạch phổi và van hai lá) được đặc
trưng bởi tăng áp mạch phổi và PVR bình thường. Điều này thường được nói đến
như tăng áp lực tĩnh mạch phổi. Áp lực nhĩ trái cao dẫn đến áp lực tim phải cao
để giữ cho máu lưu thông. Thận trọng khi sử dụng bất kỳ loại thuốc giãn mạch
phổi nào - làm giảm áp lực động mạch phổi trung bình, trong khi áp lực mao mạch
phổi bít vẫn tăng, thường dẫn đến phù phổi.
Xem xét một bệnh
nhân bị suy tim sung huyết (CHF) tâm thu nặng. Anh ta có PAP trung bình là 40
mmHg và PAOP là 30 mmHg. PAOP (còn gọi là wedge pressure) đại diện cho áp lực
nhĩ trái. Áp lực nhĩ trái bằng với áp lực thất trái ở cuối thời kỳ tâm trương,
khi dòng máu dừng di chuyển từ nhĩ xuống thất. Áp lực thất trái cuối tâm trương
tăng do suy tim sung huyết nặng. Cách duy nhất để máu có thể di chuyển từ thất
phải qua hệ mạch phổi và vào thất trái là nếu áp lực động mạch phổi cao hơn áp
lực thất tráo. Bây giờ, bệnh nhân này được bắt đầu với iNO. PAP trung bình
giảm, như đã dự đoán. iNO là một thuốc giãn mạch phổi chọn lọc, có nghĩa là nó
sẽ không làm giảm hậu gánh thất trái. Áp lực nhĩ trái vẫn không đổi. Nếu PAP
trung bình bây giờ là 28, vào áp lực nhĩ trái là 30, bạn có thể thấy điều này
đang diễn ra. Dòng máu sẽ đảo ngược, dẫn đến phù phổi và tụt huyết áp.
Mặt khác, tăng
áp động mạch phổi được đặc trưng bởi một sự mất cân bằng giữa PAP trung bình và
PAOP. Bệnh lý huyết khối, bệnh mô liên kết, và hạ oxy máu mạn tính là các
nguyên nhân phổ biến. Một bệnh nhân với PAP trung bình là 45 mmHg, PAOP là 15
mmHg, và cung lượng tim là 6 L/phút, có PVR là 5 đơn vị Wood, cho thấy tăng áp
lực động mạch phổi. Suy giảm chức năng thất phải với PVR > 4 đơn vị Wood có
thể cải thiện với thuốc giãn mạch phổi.
Điều quan trọng là phải nhớ rằng nitric oxide hoặc prostacyclin dạng hít là
một liệu pháp bổ trợ, và nó không phải là một liệu pháp điều trị. Các tình
trạng nền dẫn đến suy chức năng thất phải nên được điều trị tích cực. Thuyên
tắc phổi nên được điều trị với kháng đông và tiêu sợi huyết. Hội chứng ngực cấp
ở bệnh nhân bị bệnh tế bào hình liềm nên được điều trị với kháng sinh và thay
máu (exchange transfusion). Nhồi máu cơ tim cấp nên được điều trị với liệu pháp
tái tưới máu. Điều cốt yếu là chú ý đến tình trạng thể tích - trong khi giảm
thể tích chắc chắn sẽ dẫn đến tụt huyết áp, và quá tải thể tích sẽ gây ra đè
đẩy vách liên thất (interventricular septum) và ảnh hưởng đến đổ đầy thất trái.
Đẳng tích, được chỉ dẫn bởi siêu âm tim và/hoặc theo dõi catheter động mạch
phổi, nên được thực hiện bằng lợi tiểu hoặc liệu pháp thay thế thận.
Thêm iNO
và Prostacyclin dạng hít
iNO có sẵn trong
hệ thống phân phối thương mại, có bề dày thành tích về độ tin cậy và an toàn.
Sử dụng một hệ thống phân phối tự làm, chưa được chấp thuận có nguy cơ dẫn đến
liều lượng iNO không đáng tin cậy và khả năng tiếp xúc độc hại của bệnh nhan và
nhân viên với nitrogen dioxide. Hãy sử dụng hệ thống thương mại!
Prostacyclin
dạng hít có thể được hòa nguyên vào trong nước muối và phân phối bằng hệ thống
máy khí dung được thiết kế để sử dụng cho máy thở. Điều này đòi hỏi một thiết
bị phân phối khí dung có thể được phối hợp với chu kỳ thở vào của máy
thở, rằng đã được mô tả trong tài liệu.64
Liều ban đầu của iNO
iNo nên được bắt
đầu với 20ppm. Đáp ứng thành công là làm giảm PAP trung bình ít nhất 10%, và
thường cải thiện PaO2 ít nhất 20 mmHg. Nếu bệnh nhân không đáp ứng
trong 5-10 phút, thì một liều cao hơn (40ppm, hoặc thậm chí 80ppm) có thể được
thử cho. Hầu hết các bệnh nhân sẽ đáp ứng với liều 20ppm. iNO nên được dừng lại
ở những bệnh nhân không có đáp ứng ban đầu với liệu pháp.
Ở những bệnh
nhân đáp ứng, liều iNO nên được giảm tường bước 5-10ppm mỗi 15-30 phút, đến mức
thấp nhất 5ppm. Khi tăng PAP trung bình >5 mmHg, hoặc giảm SpO2
>5%, nên được điều trị bằng cách tăng liều iNO trở về mức mà nó có hiệu quả.
Khi bệnh nhân đã
bắt đầu có dấu hiệu hồi phục (cải thiện trao đổi khí, cần ít thuốc co bóp), iNO
có thể được giảm hoặc ngừng hoàn toàn. Điều này nên được thực hiện từ từ, vì
việc ngừng thuốc đột ngột có thể dẫn đến quay lại (rebound) hạ oxy máu và tăng
áp phổi.
Khi bệnh nhân
dung nạp với iNo ở liều 5ppm, có thể cai thuốc. Liều iNO nên được giảm 1ppm mỗi
30 phút. Nếu PAP trung bình tăng >5 mmHg, hoặc SpO2 giảm >5%, iNO nên
được quay trở lại đến 5ppm và các nỗ lực cai tiếp theo nên được trì hoãn ít
nhất 12 giờ. Khi iNO ở mức 2ppm, một liều đơn sildenafil 20mg có thể được cho
thêm (nếu nó chưa được sử dụng). Điều này có thể giúp dự phòng rebound tăng áp
phổi khi ngừng thuốc hoàn toàn. Sau khi thêm sildenafil, tiếp ục giảm iNO 1ppm
mỗi 30 phút cho đến khi hết.
* PVR thường được biểu thị bằng dyne-sec-cm-5. Điều này có
được bằng cách nhân số lượng Wood units với 79.9. Tôi không
chắc tại sao lại như vậy. Tôi thấy nó dễ sử dụng hơn Wood units.
* Sách được biên dịch bởi: Nguyễn Thành Luận - Khoa ICU, Bệnh viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An. Sách gồm phần giới thiệu - Sinh lý thông khí nhân tạo. Gồm có 27 Chương. Cung cấp: các Hướng dẫn giải quyết nhanh ở chương 1 và chương 2; Sinh lý và kỹ thuật từ chương 3 đến chương 8; Các chế độ thông thường và khái niệm cơ bản từ chương 9 đến chương 15; Các chế độ và khái niệm nâng cao từ chương 16 đến chương 15; Các bước tiếp theo chương 22 và chương 23; Các công cụ hữu ích có trong chương 24 đến chương 27; Với 79 tài liệu tham khảo.
Với mong muốn cung cấp đến mọi người phiên bản Web, Blog chia sẻ trực tuyến không cần lưu trữ. Khi cần có thể đọc trên điện thoại, máy tính hoặc có thể tải về làm tài liệu cho đơn vị.
* Bạn có thể Đọc thêm: