Lễ theo phạm trù của Nho Giáo
A. MỞ ĐẦU
Trong thời kỳ lịch sử
Trung Hoa cổ
đại,
Nho giáo trở thành
hệ tư tưởng chính thống cả về chính trị lẫn đạo đức hơn 2.000 năm. Nho giáo
được hình thành từ thời Tây Chu, với sự
đóng góp đặc biệt của Chu
Công Đán, còn gọi là Chu Công. Đến thời Xuân Thu, xã hội
loạn lạc, Khổng Tử (sinh
năm 551 trước Công nguyên) phát triển tư tưởng của Chu Công, hệ thống hóa và tích cực truyền bá các tư tưởng đó.
Chính vì thế mà người đời sau coi Khổng Tử là người sáng lập ra Nho giáo. Từ đó, nó lan rộng phát triển ra ở Việt nam và các nước châu Á vào thế kỷ thứ IV. Học thuyết
của
Nho giáo là yếu tố tích cực, tiến bộ nhất định, là một học thuyết rộng lớn, có ảnh
hưởng sâu sắc đến nền văn hóa, tư tưởng của nhiều nước phương đông. Đặc biệt,
quan niệm về lễ của Nho giáo là một trong những quan niệm có nhiều yếu tố được
Việt Nam tiếp nhận, kế thừa và phát triển. Hệ thống Nho giáo trong thời kỳ đó
ngày càng phát triển, phạm trù về lễ được bổ sung nghiêm ngặt trở thành khuôn mẫu
định danh phận trật tự rõ ràng, nó còn là công cụ cho giai cấp phong kiến thống
trị giúp xã hội ổn định và phát triển. “lễ” còn là phạm trù xuyên suốt trong học
thuyết Nho giáo, Lễ có những giá trị rất to lớn trong hoàn cảnh xã hội chính trị
Trung Quốc thời bấy giờ. Từ Khổng Tử đến Mạnh Tử phạm trù lễ đã được phát triển
theo những nội dung khác nhau, ngày càng đầy đủ và chặt chẽ hơn. Như vậy, phạm
trù lễ như thế nào, nguyên nhân chính cho sự hình thành lễ trong Nho giáo ra
sao?
B. NỘI DUNG
1. Phạm trù lễ theo Khổng Tử
Theo Khổng Tử Phạm trù Lễ mang những bốn nội dung
chính yếu sau: Một là: Lễ dùng để chỉ nghi lễ, chế độ chính trị và những quy phạm
đạo đức; Hai là: Lễ là cơ sở của mọi hành động. Không phải lễ là không
nhìn, không phải lê là không nghe, không phải lễ thì không hành động; Ba là: Lễ
là quy định và đảm bảo quyền hành của mỗi người; Bốn là: Lễ là mọi việc làm đâu
phải ra đấy và khi thực hiện lễ mọi người phải thành kính.
Sự ra đời của phạm trù “lễ” có hai nguyên nhân chính.
Nguyên nhân thứ nhất: “lễ” ra đời với mục đích tế tự, thuận theo đạo của trời đất
để lý giải đạo của con người. Theo nghĩa này thì lễ ra đời là để thờ cúng, qua
đó cũng biểu hiện mối quan hệ giữa con người với nhau trong quá trình phát triển
của xã hội. Nguồn gốc của lễ được thần thánh hóa: Thánh nhân tạo thành tạo
thành nguyên tắc ấy phải lấy trời đất làm gốc. Lễ là do các tiên vương thuận
theo đạo trời, lấy tình cảm để trị dân. Nguyên nhân thứ hai: Quá trình phát triển
của xã hội đòi hỏi phải có lễ để giáo hóa con người, từ đó đặt ra chuẩn mực đạo
đức chung cho toàn xã hội. Con người cần có lễ để làm quy tắc, chuẩn mực để
phân định giới hạn thiện, ác. Lễ có nhiệm vụ làm cho con người từ ác trở thành
thiện và quy thuận nhà cầm quyền.
Phạm trù lễ ra đời bởi hai nguyên nhân trên nhưng sự
phát triển của nó là một quá trình gắn liền với sự phát triển của các triều đại
Trung Quốc ngay từ thời cổ đại. Sự xuất hiện ban đầu của lễ nguyên là kính trời,
thờ quỷ thần, tôn thờ tổ tiên, cầu phúc đức, như vậy chúng ta có thể hiểu rằng
phạm trù lễ xuất hiện ban đầu chỉ là một dạng sinh hoạt văn hóa tinh thần của
người dân, chính vì thế nó mang màu sắc lễ nghi của tôn giáo ở Trung Quốc cổ đại.
Trải qua quá trình phát triển của đời sống xã hội, phạm trù lễ ngày được mở rộng.
lễ được coi là lễ nghi, lề lối cư xử, quy tắc, luật lệ chuẩn mực quy định trật
tự quan hệ xã hội, từ trong gia tộc đến ngoài xã hội, những chuẩn mực của phạm
trù lễ lúc này được biểu hiện trong mối quan hệ ngũ luân như quân thần, phụ tử,
phu phụ, huynh đệ, bằng hữu.
2. Lễ trong quan hệ giữa con người với trời đất, quỷ
thần.
Theo nghiên cứu lịch sử tư tưởng Trung Quốc, Lễ theo
nghĩa đen thì hoàn toàn chỉ có ý nghĩa cúng tế thần linh, là một lễ nghi tô tem
giáo của người xưa, lễ phản ánh quan hệ giữa người và thần.
Về sau, Chu Công (tên thật là Cơ Đán) là người chế tác
ra Lễ với rất nhiều nghi thức, nhằm mục đích xác định các mối quan hệ xã hội,
duy trì trật tự đẳng cấp của xã hội nhà Chu. Vì thế Lễ đã chuyển từ tế lễ của
tôn giáo sang chính trị - đạo đức và trở thành công cụ thống trị của giai cấp
quý tộc nhà Chu, trở thành một phạm trù cơ bản của học thuyết Nho giáo, trong
sách Chu Lễ có viết: Lễ không xuống tới thứ dân. Sau này cũng vì mục đích bảo vệ
chế độ tông pháp nhà Chu và để ổn định trật tự xã hội. Từ đó, trong quá trình
nhận thức ông đã nhận ra được ý nghĩa đạo đức và văn hóa của Lễ. Lễ còn được
coi là tiêu chuẩn để đánh giá con người đối xử với nhau có yêu quý và tôn trọng
nhau.
Như vậy, quan niệm về Lễ gắn với tư tưởng chính trị thần
quyền và nó tạo nên sự phân chia đẳng cấp trên dưới giàu nghèo, thân sơ theo chế
độ quý tộc, quy định trật tự tôn ti chặt chẽ, từ đó được coi là tiêu chuẩn để
đánh giá con người thời đó. Nội dung của Lễ rất rộng lớn bao gồm các nghi thức
như tế lễ, hôn lễ, tang lễ, ... nó cũng là quy phạm đạo đức và nghi thức lễ tiết
của trật tự xã hội, trong thực tế nó bao gồm chế độ điển chương quan hệ xã hội
cũ. Điều đó lễ hiểu theo nghĩa hẹp thì đó là những hình thức lễ nghi hôn, quan,
tang, tế ... trong triều đình, quân lữ, trong gia đình, gia tộc; còn theo nghĩa
rộng thì Lễ còn có nghĩa là sự quy định những quyền của vua quan, những bổn phận
của bầy tôi, của thần dân, những quan hệ giữa người với người nói chung, giữa
các tầng lớp, giữa các giai cấp trong xã hội mà mọi người phải tôn trọng và
tuân thủ. Hơn nữa, nó còn là một đức cần có của con người, là một yếu tố không
thể thiếu được trong đạo làm người theo quan niệm Nho gia, đó là thái độ, là ý
thức giữ gìn, tôn trọng lễ nghi, kỷ cương và trật tự xã hội đã được quy định.
Nho giáo chủ trương cúng tế là vì nó tin ở trời đất,
thiên mệnh và quỷ thần, coi quỷ thần là cái khí thiêng liêng trong trời đất, mắt
ta không trông thấy, tai ta không nghe thấy nhưng đâu đâu cũng lại hình như ở
trên đầu ta, ở bên tả bên hữu ta cho nên ta cần phải kính cẩn phụng thờ, theo Khổng
Tử thì tế thần như có thần ở trước mặt.
Theo Khổng Tử Quỷ thần là do khí thiêng trong trời đất
tạo thành, tuy mắt ta không nhìn thấy, tai ta không nghe thấy, tay ta không sờ
thấy, nhưng quỷ thần vẫn tồn tại. Tuy nhiên, ông lại cho rằng, kính quỷ thần
nhưng không hay gần, tức không mê tín như vậy có thể gọi là trí. Mặt khác, ông
kêu gọi mọi người hãy chú trọng vào việc sống tốt cuộc sống của mình, bởi vì đạo
thờ người chưa biết hết thì sao biết được đạo quỷ thần. Không hiểu được con người
sống, thì không có tư cách hỏi chuyện sau khi chết. Ông cũng khẳng định trí
thông minh, sự khôn ngoan của con người đối lập với mê tín quỷ thần. Nho giáo cho
rằng Quỷ thần là thông minh chính trực, không thiên vị ai, người ta cứ theo lễ
công chính mà làm, cứ cố gắng làm cho trọn vẹn cái bổn phận của mình rồi quỷ thần
trời đất sẽ chứng giám cho, hà tất phải nay cầu mai nguyện làm gì, bởi những bậc
chính nhân quân tử cứ theo lễ công nhiên của trời đất mà làm thì ấy cũng là cầu
nguyện rồi. Còn nếu những kẻ bất nhân, bất nghĩa, hành vi trái đạo tức là mắc tội
với trời thì dẫu có ra sức cầu đảo cũng không thể nào thoát được. Khổng Tử vốn
tin vào trời và mênh trời, nhưng ông cũng cho rằng quỷ thần là cái cao xa u uẩn,
ta không thể biết rõ mà chỉ nên lấy lòng thành kính đối đãi là được, ta cứ chăm
lo làm việc nghĩa. Việc thờ phụng phải lấy lòng kính và thành thì mới cảm động
đến trời đất quỷ thần được. Khổng Tử rất coi trọng tế trong việc ăn uống thì đạm
bạc, nhưng lễ vật dâng quỷ thần thì trọng hậu, y phục thường mặc thì xấu mà áo
mũ trang sức trong dị tế lễ thì đẹp đẽ.
Trong việc cúng bái trời đất, quỷ thần hay thờ cúng tổ
tiên thì không phải ai cũng như nhau mà phải tùy vào địa vị chức phận của mình.
Những người có danh vị khác nhau thì lễ cũng khác nhau, cho nên mới có lễ của
thiên tử, lễ của chư hầu, lễ của đại phu và lễ của kẻ sĩ. Mạnh Tử cho rằng khi
mình dâng cúng lễ vật cho quỷ thần, mình cần giữ nhiều nghi tiết một cách cung
kính. Nếu lễ vật nhiều mà nghi tiết cung kính sơ sót thì kể như mình chẳng dâng
cúng, là vì chẳng dung tâm chí vào sự tế vậy. Những ai vi phạm quy định của Lễ
đều bị trừng trị nghiêm ngặt.
Vậy là Lễ của Nho giáo trước hết đó là sự thể hiện mối
quan hệ của con người với trời đất, quỷ thần, với tổ tiên; là cách thức tế lễ
cúng bái ... phải có lễ, nhờ lễ mà quan hệ ấy mới được thông suốt, qua lễ mà quỷ
thần, tổ tiên mới chứng giám cho sự thành kính của con người; qua lễ mới tỏ được
đức hiếu của mình với linh hồn của tổ tiên. Nhưng ta thấy rằng việc cúng tế trời
đất, quỷ thần cũng chính là nhằm củng cố cho con người ta một niềm tin vào trật
tự xã hội và mệnh trời đã xếp đặt và ban cho cho bởi vì cùng việc tế tự ấy
nhưng không phải người nào cũng được tế tự như nhau. Bên cạnh Nho giáo còn có Đạo
giáo và Phật giáo còn được gọi chung là Tam giáo, đối với Trung Quốc là thổ sản.
Việt Nam là ngoại lai, du nhập từ Trung Quốc. Phật giáo được Trung Quốc du nhập
từ ấn Độ là một tôn giáo lớn ảnh hưởng toàn thế giới. Khi vào Trung Quốc
phải trải qua vài thế kỷ dung hợp với tư tưởng Lão Trang, hình thành tông phái
mới là Thiền Tông mới bắt rễ được vào đất mới. Còn Đạo giáo là một tôn giáo
hoàn toàn Trung Hoa, bắt nguồn từ triết học Lão Trang (cũng gọi là Đạo gia)
thành một tôn giáo chống đối của nông dân, có ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc nhưng
khi Việt Nam thì biến dạng, mang hình thức dân tộc. Nói là bắt nguồn từ Lão
Trang nhưng quan hệ giữa triết học Đạo gia với Đạo giáo là cực mỏng manh, ngoại
trừ việc tôn Lão Tử và Trang Tử thành Thái thượng Lão Quân và Nam Hoa Chân
nhân. Về tư tưởng triết học, Phật giáo và Đạo gia đối nghịch với tư tưởng Nho
gia, về tôn giáo, Phật Đạo cũng có định hướng khác.
Phật giáo coi cõi đời là bể khổ, chủ trương xuất thế
giải thoát, tìm cõi cực lạc Niết bàn. Niết bàn là Tây phương tịnh thổ, tức là
có một cõi nào đó trong thế giới hay chỉ là ở trong tâm mình thì vẫn là không
phải cõi đời này. Cách biện giải con người, cõi đời, thế giới và con đường giải
thoát của Phật giáo là một hệ thống tư tưởng cao sâu, tinh vi, không cần
đến thần linh. Nhưng để tìm đường giải thoát, tín đồ Phật vẫn phải xuất gia tu
hành, phải tụng niệm, phải theo giới luật, phải cúng tế... Phật giáo từ là triết
học thành một tôn giáo. Và về mặt phương pháp tu dưỡng, tu hành, Phật giáo cũng
để lại một kho tàng kinh nghiệm phong phú.
3. Lễ là những quy phạm
ràng buộc mối quan hệ giữa người với người từ trong gia đình cho đến ngoài xã hội.
Như chúng ta biết loài người được tiến hóa từ loài khỉ
qua quá trình lao động sáng tạo, trải qua các quá trình phát triển từ hình thái
kinh tế xã hội công xã nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, … và đến nay.
Mối quan hệ giữa người với người rất phong phú và phức tạp. Tuy nhiên trong xã
hội loài người thời đó, những quan hệ ấy cũng có sự quy định rạch ròi và đó được
coi như là trật tự của trời đất. Theo Sách Lễ viết: Lễ phân ra trật tự khác
nhau để cho vạn vật có thứ tự phân minh; Trời cao đất thấp, muôn vật khác nhau
cho nên thánh nhân mới nhân đó mà định ra lễ chế để phân tôn ti trật tự và tiên
vương chế ra lễ nhạc không phải để làm cho cùng cực cái dục của miệng, bụng,
tai, mắt, nhưng để khiến dân giữ lòng hiếu ố cho vừa phải mà sửa lại cái đạo làm
người cho chính vậy.
Lễ là toàn bộ những quy tắc lớn nhỏ trong cuộc sống,
là những yêu cầu hàng ngày của trật tự phong kiến mà nhất thiết mọi người phải
tuân theo. Nho giáo yêu cầu phải rèn luyện con người đi vào những quy tắc ngay
từ thơ ấu phải xây dựng cho con người những khuôn phép tốt đẹp để chúng suốt đời
tôn trọng và làm theo những khuân phép này, được quy định dựa trên cơ sở tập
quán cũ của nhà Chu là một số những yêu cầu thiết thực của trật tự xã hội đương
thời. Nho giáo đòi hỏi mọi người phải tuân thủ những khuôn phép ấy từ việc tế lễ
quỷ thần cho đến mọi quan hệ vua - tôi, cha- con, anh- em, chồng - vợ, bằng hữu
và ngay cả những sinh hoạt hàng ngày của mỗi con người.
Lễ được xem là nguồn gốc của nhân, biểu hiện thái độ của
lễ là ở kính, ở lòng chí thành, ông đã ví lễ cao đẹp như ngọc lụa, như chiêng,
trống. Khắc kỉ phục lễ chính là để con người tự rèn luyện các phẩm chất đạo đức
như cung, khiêm, dũng, trực,. để trở thành con người có nhân cách tốt trong xã
hội. Lễ đã trở thành những quy phạm bắt buộc là tiêu chuẩn phổ biến của xã hội
để điều chỉnh hành vi của con người. Nó không chỉ là phong tục tập quán của lễ
giáo cổ đơn thuần mà còn là điển chương, pháp luật, nếp sống,. mang ý nghĩa đạo
đức- văn hóa rộng lớn.
Nho giáo nêu lên một cách nổi bật nhất những quan hệ
giữa người với người, đặt ra Ngũ luân: quân thần, phụ tử, phu thê, trưởng ấu, bằng
hữu. Bên cạnh đó còn có những quan hệ thầy trò, quan hệ chủ khách, chủ tớ, quan
hệ nghĩa. Bất cứ nơi đâu cũng có trên, có dưới, có ngang vai ngang vế với nhau.
Trong ngũ luân ấy lại có ba mối quan hệ được Nho giáo đặc biệt đề cao gọi là
Tam cương: quân thần, phụ tử, phu thê (vua- tôi; cha- con; chồng - vợ). Bao
quát những mối quan hệ lớn nhất, theo Nho giáo có mười đức: cha từ, con hiếu;
anh lành, em đễ; chồng có nghĩa, vợ vâng lời; trưởng có ân, ấu ngoan ngoãn; vua
nhân, tôi trung.
Nói về mạnh Mạnh Tử, ông cũng rất coi trọng và đề cao
lễ. Với Mạnh Tử mục đích giáo dục của ông cũng chỉ là để làm sáng tỏ minh luân,
khiến cho mọi người đều biết lễ trong quan hệ với nhau như: cha con phải có
tình thương yêu nhau, vua tôi phải có nghĩa, vợ chồng phải kính nể nhau, già trẻ
phải có thức bậc trên dưới, bạn bè phải có tín. Ông chỉ rõ thực chất của lễ: là
hình thức biểu hiện của nhân nghĩa, là hình thức biểu hiện của thực hành đạo
làm người của Nho giáo theo những bậc năm khác nhau ứng với ngũ luân. Cùng với
Tứ đoan, ông chỉ rõ nguồn gốc của lễ ở trong bản tính con người đó là lòng từ
nhượng.
Đến thời Tuân tử, ông cũng coi Lễ là cái cùng cực của
mọi người vậy Nhưng ông đã tiến hành cải tạo lễ của Khổng - Mạnh. Do đó, về
phương diện này ông cũng có những đóng góp rất lớn. Ông giải thích rõ ràng đầy
đủ và sâu sắc về nguồn gốc, nội dung, vẻ đẹp và tác dụng của lễ theo lập trường
duy vật triệt để. Theo ông, đối tượng của lễ gồm ba nguồn gốc: Trời đất, tổ
tiên, vua và thầy. Ba nguồn gốc đó mà mất một thì xã hội loạn, vì thế lễ là
trên thờ trời, dưới thờ đất, tôn vinh tổ tiên, quý trọng vua và thầy. Nhưng
chúng ta biết rằng nguồn gốc thật sự của Lễ là do sự quy định của điều kiện
kinh tế - xã hội. Vì thế Tuân tử mới nói vì ghét loạn và mong muốn có bình trị
mà tiên vương chế ra lễ để phân biệt trên dưới, khiến cho sang hèn có đẳng cấp,
già trẻ có sự sai biệt, trí ngu tài giỏi, kém cỏi đều có phân vị khác nhau, để
không tranh nhau, không tiếm vượt. Ông ca gợi vẻ đẹp văn hóa và tác dụng của lễ:
Nó rất mực, rất uy nghiêm và rành mạch; nó là bài thuốc diệt trừ tính ác để cho
con người thực hiện hết cái đạo lý quần cư hòa. Nó không chỉ làm cho trời đất
hòa hợp, xã hội ổn định mà còn là tiêu chuẩn cực tốt của đạo làm người. Lễ làm
ra là để xây dựng những tập quán luân lý, đạo đức, để tô đẹp cho đời, để con
người đối xử với nhau có đạo đức văn hóa.
Theo Tuân tử thì quan niệm về lễ của Nho giáo ngày
càng được phát triển đầy đủ hơn. Điều đó được thể hiện rõ trong sách Lễ ký,
thiên Lễ Vận như sau: lễ, ấy là quyền binh lớn của nhà vua, để phân biệt chỗ ngờ,
làm sảng tỏ chỗ tể vi, tế lễ quỷ thần, khảo sát chế độ, phân biệt điều nhân
nghĩa, để làm chinh sự yên ổn cho vua vậy. Ông cải tạo còn có điểm khác với lễ
của Khổng Mạnh, ông chủ trương rằng nếu con em vương, công, sĩ, đại phu mà
không phù hợp với tiêu chuẩn lễ của xã hội phong kiến thì hạ xuống làm thứ dân,
con em thứ dân mà phù hợp với tiêu chuẩn lễ ấy thì có thể làm nên khanh tướng,
sĩ, đại phu. Điều đó căn bản có khác với chế độ thế tập huyết thống cũ, đã mở
ra cơ hội cho những người không thuộc hoàng thân tôn thích có hy vọng tham gia
chính quyền. Ông còn kết hợp lễ với pháp, coi lễ là cái phận lớn của pháp luật
và trái lễ là không có pháp luật.
Như vậy, Lễ được xem là trung tâm của nền chính trị
Nho gia và là hình thức biểu hiện của một xã hội thái bình thịnh trị, là tiêu
chuẩn để đánh giá con người và chế độ xã hội. Khổng Tử từng nói: Không phải Lễ
thì không nhìn, không phải lễ thì không nghe, không nghe, không nói và không
hành động. Mọi hành động vượt quá lễ đều không đúng và không tốt vì cung kính
quả lễ thì thành ra lao nhọc thân hình, cẩn thận quả lễ thì thành ra nhát gan,
dũng cảm quả lễ thì thành ra loạn nghịch, ngay thẳng quả lễ thì thành ra gẳt gỏng
bất cập.
Lễ còn được thiên tử đặt ra để dạy dân, nhưng nó không
phải là cái bất biến mà cũng quyền biến hay tùy thời kỳ mà có thay đổi, để cốt
sao cho nước trị, dân yên, xây dựng được những tập quản đạo đức luân lỷ cho con
người. Do vậy Lễ được xem là cái gốc tạo được thuận lòng người, được mọi người
tản thành, vì thế những điều không được ghi chép mà thuận lòng người thì cũng được
xem là lễ. Với quan điểm duy vật tiến bộ, mục đích của Lễ được hiểu tốt đẹp như
vậy là cơ sở để có thể mở rộng và phát triển những nội dung tiến bộ, phù hợp của
nó nhằm đáp ứng yêu cầu của xã hội, loại bỏ những gì không còn là Lễ khi điều
kiện kinh tế xã hội đã thay đổi. Nhưng sau này nội dung tiến bộ đó của Lễ đã bị
các nhà Nho đời sau loại bỏ, do tuyệt đối hóa và đề cao Lễ theo lập trường duy
tâm.
Vào thời kỳ đó, Lễ đã quy định trật tự trong xã hội có
thứ bậc, trên dưới, mọi hành vi ứng xử phải theo một lề thói nhất định. Một xã
hội với trật tự như vậy, tưởng chừng như một sự ổn định vững bền nhưng xét ra,
bên trong nó lại chứa đựng bao nhiêu mâu thuẫn, nó đã làm mất đi bản tính tự
nhiên vốn có, kìm hãm sự độc lập sáng tạo, chặn bước tiến lên của con người.
Nhưng cần phải hiểu rằng, trong thời đại đó thì Lễ thực sự là một biện pháp hữu
hiệu để nhằm kéo xã hội ra khỏi cảnh đời suy đạo yếu.
4. Tác dụng của Lễ
Sự ra đời của Nho giáo là dùng Lễ để đưa xã hội từ loạn
thành trị. Nho giáo đưa Lễ vào cuộc sống con người đã có những tác dụng rất lớn
nhằm giáo dục lễ nghi, giáo dục đạo đức cho mỗi con người, giúp đất nước ổn định
và thịnh vượng.
Tác dụng thứ nhất là lễ quy định danh phận của từng
người trong xã hội theo địa vị đẳng cấp, ngôi thứ rõ ràng, không ai được tiến
vượt. Thi hành nó sẽ có tác dụng ổn định trật tự xã hội. Thời đại Khổng Tử sống
là thời kỳ loạn lạc, mà ông phải thốt lên rằng, đó là thời loạn nhạc tan, là thời
vua không ra vua, tôi không ra tôi, cha không ra cha, con không ra con. Vì thế
mà ước nguyện của ông là cứu vãn nguy cơ của xã hội đương thời, khôi phục lại
trật tự tôn ti, quay về với cương thường lễ chế nhà Chu, quy định danh phận rõ
ràng cho từng người, bởi nếu danh mà chính thì thiên hạ sẽ được thái bình. Ông
đã dùng danh để quy định nên thực chứ không phải dùng thực để đặt nên danh, đây
chính là tư tưởng bảo thủ của Khổng Tử. Khổng Tử đã giải thích rằng xã hội phải
có lễ, vì không có lễ thì không phân biệt địa vị vua tôi, trên, dưới, lớn, nhỏ.
Không có lễ đâu phân biệt tình thân mật của trai gái, cha con, anh em, sự giao
thiệp hay thân của hôn nhân vậy. Vì vậy vua phải sống xứng đáng là vua, bề tôi
đáng phận bề tôi, cha đáng cha, vợ đáng vợ, chồng đáng chồng, con đáng con ... Ai
nấy làm hết phận sự, trách nhiệm của mình trong các quan hệ giao tiếp.
Kế thừa và tiếp thu quan niệm của Khổng Tử, Mạnh Tử
cho rằng: Nếu trong nước chẳng có lễ nghĩa, ẳt ngôi thứ kẻ trên người dưới đều
lộn bậy hết cả. Như vậy Lễ là tiêu chuẩn khách quan để quy đinh danh phận, sự
khác biệt về địa vị, quyền hạn và trách nhiệm của từng hạng ngưòi trong xã hội.
Theo tinh thần đó, Tuân Tử còn phân tích kỹ hơn và khẳng
định Phân theo lễ là định rõ danh phận. Ông nói có dạng sang hèn, có lớn bẻ
khác nhau, có danh phận tri ngu, có tài, bất tài, khiển cho mọi người đều làm
phận sự của mình và mỗi người đều được cái phần đảng được của mình.
Có thể nói trong xã hội phong kiến lúc đó Lễ gắn với sự
tồn vong của đất nước. Nhờ có Lễ mà xã hội ổn định, có trật tự kỷ cương, đạt được
chính danh.
Thứ hai là nhờ có lễ mà giáo dục, rèn luyện được tâm
tính con người, đưa con người trở về với tính thiện bẩm sinh, đưa con người từ
ác trở nên thiện. Khổng Tử là một trong những người đầu tiên đề xướng việc học
lễ và dạy lễ cho học trò, cho mọi người. Ông cho rằng học lễ là điều kiện đầu
tiên không thể thiếu được của mỗi người trong xã hội. Con người ta phải tự mình
rèn luyện, học theo Lễ, nếu không học được kinh lễ thì không biết cách đứng ở đời.
Theo Khổng Tử Lễ được gắn chặt với nhân, nếu không có
lễ thì chỉ là hình thức giả dối, là những nghi tiết phiền toái mà thôi. Khổng Tử
nói người ta mà chẳng có lòng nhân, làm sao mà thi hành lễ. Lễ là tiêu chuẩn của
nhân, chỉ có làm theo quy định của lễ mới đạt đuợc điều nhân. Khổng Tử cho rằng
Khắc kỷ phục lễ vi nhân và ngày nào mà mình khắc kỷ phục lễ, ngày đó mọi người
trong thiên hạ tự nhiên cảm hoá mà theo về điều nhân. Khổng Tử có chủ trương cải
lương, ông muốn dùng đức và lễ để bổ sung cho chính và hình. Theo ông nếu dùng
chinh pháp để dẫn đạo dân, dùng hình phạt để tề chỉnh dân, dân chỉ tạm thời khỏi
mẳc tội lỗi nhưng không có liêm sỉ. Nếu như dùng đạo đức để dẫn dụ dân, lấy lễ
giáo để tề chỉnh dân thì chẳng những dân có liêm sỉ mà lại còn trừ bỏ được cả
ác tâm mà lòng người quy phục. Như vậy nếu chỉ dùng mệnh lệnh và hình phạt,
theo ông chưa đủ mà cần phải có đức để tăng cường giáo dục, phải dùng lễ để
ràng buộc con người. Lễ ở đây đóng vai trò là một nguyên tắc chính trị quan trọng,
một công cụ chính trị mạnh mẽ của một phương pháp trị nước trị dân đắc lực lâu
đời mà Nho giáo nói chung và Khổng Tử nói riêng đã cống hiến cho bao nhiêu thời
đại đế vương.
Lễ chỉ cho người ta điều hay lẽ phải, hành động theo lễ
sẽ đạt đến điều nhân, cảm hoá được người khác. Mạnh Tử quan niệm, bản tính con
người sinh ra vốn là lành nhưng phải có lễ để giữ gìn cái bẩm tính lành ấy. Ông
còn nói rằng: người tuy có đạo lý nhưng cứ ăn no, mặc ẩm, ngồi yên mà chẳng có giáo
dục thì gần với loài cầm thú. Ngược lại với Mạnh Tử cho bản tính con người là
thiện thì Tuân Tử lại cho rằng bản tính của con người là ác, người ta sinh ra
đã có các loại dục vọng về sinh lý: thích lợi, ghét ác, thích an nhàn mà ghét
lao động và không có cái đầu mối thiện như quan niệm của Mạnh Tử. Trên cơ sở đó
Tuân Tử luận chứng cho tính tất yếu của lễ nghĩa. Theo ông lễ nghĩa là điều mà
các bậc thánh vương ngày xưa dung để uốn nắn tính ác, vì con người có nhiều ham
muốn, lắm dục vọng không được thoả mãn cho nên nếu như buông lỏng dục vọng sẽ nảy
sinh đấu tranh giành giật lẫn nhau làm loạn xã hội, để tránh sự hỗn loạn đó nên
các bấc thánh vương mới đặt ra lễ nghĩa để định danh phận. Với thế giới quan
duy vật và nhân sinh quan đúng đắn, Tuân Tử nêu rõ tác dụng to lớn của lễ đối với
việc rèn luyện tâm tính, nhân cách của con người. Ông gọi lễ là thuật trị tốt
nhất, bởi nó làm cho con người đạt được đức tốt, đưa con người tới nhân, nghĩa,
trí, đạt tới chí thiện. Mọi đức tốt có được là do lễ, là do một lòng một dạ yêu
điều thiện
Nếu như Khổng Tử mới chỉ khái quát tác dụng của lễ
trong việc rèn luyện phẩm chất đạo đức của con người bằng lời khuyên khẳc kỷ phục
lễ vi nhân và khẳng định tề nhất dân theo lễ thì dân sẽ biết xấu hổ, tận tuy mà
nghe theo và nếu như Mạnh Tử thấy rõ tác dụng của lễ là làm cho nhân nghĩa thêm
tốt đẹp, làm cho con người trở về với tính thiện bẩm sinh thì Tuân Tử lại thấy
đầy đủ tác dụng tích cực sâu sắc của lễ trong việc biến đổi cảm hoá tâm tính
con người, làm cho con người trở nên hoàn toàn tốt đẹp và ông rất đề cao ca ngợi
lễ, coi đó là chỗ dựa để người ta sửa mình. Sau này sách Lễ ký có chỉ rõ phương
pháp dung lễ để tiết chế nhân tình, những trạng thái tâm lý vốn có của con người,
nhưng thực ra phương pháp đó cũng chỉ là sự tổng kết và rút ra từ những điều mà
Tuân Tử đã phân tích và kết luận mà thôi.
Thứ ba là Lễ góp phần xây dựng tập quán đạo đức, truyền
thống văn hoá. Ngoài việc định danh phận cho con người, tiết chế tình người và
rèn luyện nhân cách đạo đức cho con người lễ còn tạo nên bầu không khí lễ giáo,
khiến cho con người ta dứt bỏ điều xấu, hướng đến các giá trị chân, thiện, mỹ.
Nhờ có bầu không khí của lễ giáo, nhất là khi tế lễ, mà con người nghĩ đến tổ
tiên, nhớ về cội nguồn với lòng thành kính và biết ơn sâu sắc. Những nghi lễ tế
lễ phù hợp, được tô vẽ đúng mức đã phản ánh trình độ nhận thức thẩm mỹ, sự phát
triển cao về văn hoá tinh thần của con người ở thời cổ đại.
Khổng Tử là người đầu tiên thấy rõ tác dụng này. Ông vốn
là người yêu chuộng lễ từ nhỏ và hiểu rõ tác dụng, ý nghĩa thẩm mỹ và văn hoá của
lễ. Ông coi đó là đầu mối của sự trị, là cái dung để tiết chế cho vừa đạo
trung, khiến cho con người biết tự trọng, coi trọng giá trị làm người mà tự
giác, vui vẻ tuân theo. Người có lễ là người có đạo đức, văn hoá, có trách nhiệm
với người khác. Kinh điển nho giáo ghi lại nhiều mẫu mực ứng xử theo lễ của Khổng
Tử đến mức tưởng như ông là người máy móc, giáo điều, nhưng thực ra, đó là sự
biểu hiện của người có văn hoá, được giáo dục chu đáo, có ý chí tu dưỡng theo lễ
để vươn lên. Mạnh Tử cũng vậy, ông từng khuyên học trò mình tặng cho người ta vật
gì mà thiểu lễ kinh thì kể như là chưa tặng vậy.
Nhưng khi nói về đạo hiếu, Khổng Tử và Mạnh Tử mới chỉ
nhấn mạnh yêu cầu về thái độ của con cái khi nuôi dưỡng cha mẹ cho có lễ, lo
tang lễ và cũng tế cha mẹ cho có lễ, đồng thời giải thích rõ lý do của tục lệ để
tang cha mẹ ba năm để tỏ long biết om và đền đáp công sinh thành và nuôi dưỡng
của cha mẹ trong ba năm bế ẵm, thì Tuân Tử ngoài việc khẳng định tập tục trên
là đúng, là vừa phải, ông còn phân tích và giải thích một cách khúc chiết, rõ
ràng và tốt đẹp của tục tang lễ, tế lễ. Ông coi đó là hình thức biểu hiện của tập
quán đạo đức, văn hoá truyền thống và của đạo làm người. Nó cần phải được duy
trì vì có tác dụng giáo dục cao trong việc xây dựng và hoàn thiện nhân cách.
Tuân Tử đã cho thấy kết luận về tác dụng của lễ đối với
con người mà xã hội không có lễ thì không thể sinh tồn, việc không có lễ thì
không thể thành tựu, nước không có lễ thì không thể có an ninh. Trong các tác dụng
của Lễ thì có tác dụng đầu tiên là quan trọng và quyết định hơn cả, bởi nó có ý
nghĩa thực tiễn trong việc duy trì trật tự xã hội cũ. Nó được giai cấp phong kiến
sử dụng triệt để nhằm phục vụ mọi lợi ích của mình, nhằm duy trì và kìm hãm con
người trong vòng trật tự kỷ cương một cách khắt khe, tàn nhẫn nhất là từ đời
nhà Hán trở đi. Các tác dụng sau chỉ có thể được phát huy khi người ta nhận thức
được đầy đủ, sâu sắc về nội dung và ý nghĩa của lễ, khi mọi người dân thừa nhận
và tự giác làm theo lễ.
C. KẾT LUẬN
Học thuyết Nho giáo là một hệ tư tưởng lớn và phức tạp
của thời kỳ cổ đại Trưng Quốc, được ra đời và phát triển để đáp ứng yêu cầu của
trật tự xã hội và chế độ phong kiến. Riêng phạm trù lễ đã thể hiện một cách
tương đối rõ ràng sự đa dạng và phức tạp của hệ tư tưởng này. Điểm tiến bộ của
nó là nhằm xây dựng những quan hệ tình cảm sâu sắc từ gia đình đến ngoài xã hội.
Song bên cạnh đó tính chất bảo thủ và phản động của nó cũng thể hiện ra đó là
nó giáo dục con người toàn tâm toàn ý phục vụ cho chế độ vương quyền phong kiến.
Tuy nó cũng nhìn thấy sức mạnh của dân, coi dân là gốc, nhưng điều quan trọng
nhất với họ quyền dân chủ thì nó lại không thừa nhận, vì thế nó đã hạn chế sự tự
do phát triển nhân cách, cá tính và tài năng của con người, nhất là những kẻ được
gọi là hậu sinh và những người phụ nữ. Nho giáo với phạm trù lễ đã khuôn ý nghĩ
và hành động của con người vào phạm vi thực hiện những quy tắc rất nghiêm ngặt
trong cuộc sống. Lễ giáo đó bao gồm những quy tắc chặt chẽ được xây dựng trên
quyền lực tuyệt đối của vua với tôi, cha với con, chồng với vợ, anh với em, thầy
với trò...nó giáo dục thái độ chấp hành, tuân thủ quyền lực và ý chí của những
kẻ bề trên. Bất cứ việc gì cũng phải tuân thủ và đúng ý như những gì lễ đã quy
định. Lễ là một thứ nguyên tắc về chính trị, một văn bản về nghi tiết và là một
thứ chế độ biểu thị trật tự và nghi tiết các danh phận đẳng cấp. Lễ là chuẩn mực,
là quy tắc cho mọi việc, đối với mọi người, lễ không chỉ gắn liền với các nghi
thức hôn, quan, tang, tế... mà còn ngay cả trong cách ăn mặc, đi đứng, nói năng
... đâu đâu nó cũng là thước đo của sự cao thấp, sang hèn.
Có thể thấy rằng, trải qua hàng nghìn năm lịch sử, các
xã hội theo Nho giáo đã giữ được sự ổn định trong gia đình và trật tự ngoài xã
hội, củng cố được mối quan hệ cương thường của Nho giáo chính là đã sống theo
những quy tắc của lễ. Lễ trở thành một điều quan trọng bậc nhất trong quản lý đất
nuớc và gia đình trong quan niệm của Nho giáo. Đó là bài học sâu sắc mà những
nuớc theo Khổng giáo hôm nay đã thực hiện để ổn định kinh tế, chính trị xã hội,
văn hoá trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.