ECMO tĩnh mạch - tĩnh mạch - SÁCH VỀ MÁY THỞ - THE VENTILATOR BOOK
Chương 20. ECMO tĩnh mạch
- tĩnh mạch
Có những lúc,
bệnh phổi của bệnh nhân là quá nặng, trao đổi khí đầy đủ là không thể hoặc có
thể chỉ đạt được với thể tích khí lưu lưu thông hoặc áp lực đường thở cao đến
mức nghiêm trọng. Trong trường hợp này, oxy hóa màng ngoài cơ thể tĩnh mạch -
tĩnh mạch (VV ECMO) nên được xem xét như biện pháp cứu nguy. Chương này là một
tổng quan đơn giản về sử dụng hỗ trợ ngoài cơ thể và được mô tả để người đọc
làm quen với cơ sở lý luận của việc sử dụng nó. Những người mong muốn điều trị
cho bệnh nhân bằng ECMO được khuyến khích tham gia một chương trình đào tạo do
Tổ chức hỗ trợ sự sống ngoài cơ thể (ELSO) tài trợ.
ECMO tĩnh mạch -
tĩnh mạch (ECMO VV) khác biệt đáng kể với ECMO tĩnh mạch - động mạch (ECMO VA).
ECMO VA là tương tự như bắc cầu tim - phổi. Máu được lấy ra từ tĩnh mạch bên
bằng cách sử dụng một ống thông đặt vào tĩnh mạch đùi. Máu được bơm qua bộ phận
trao đổi oxy (oxygenator), và máu được cung cấp đầy đủ oxy quay trở về bệnh
nhân qua một ống thông được đặt vào động mạch đùi hoặc dưới đòn. Ở trẻ sơ sinh,
động mạch cảnh thường được sử dụng; tuy nhiên, ở người lớn, động mạch cảnh được
tránh do nguy cơ đột quỵ. Với ECMO VA, tuần hoàn ngoài cơ thể có thể hỗ trợ cả
hệ thống phổi và tim. Lưu lượng qua bơm có thể có thể cung cấp điều tốt hơn cho
ngay cả suy tim nặng nhất. Thực tế, chỉ định chủ yếu của ECMO VA ở người lớn là
sốc tim kháng trị.
Mặt khác, ECMO VV, không phải cung
cấp hỗ trợ cho tim. Máu được lấy từ tĩnh mạch chủ dưới qua ống thông được đặt
vào tĩnh mạch đùi. Sau khi máu được bơm qua bộ phận trao đổi oxy (oxygenator),
nó được quay trở về nhĩ phải qua ống thống đặt vào tĩnh mạch cảnh trong.
Ống thông 2 nòng cũng sẵn có, và chức năng tương tự catheter
2 nòng trong thận nhân tạo (mặc dù nó lớn hơn nhiều, để cung cấp lưu lược máu
4-7 L/phút).
Ống thông hai
nòng được đặt vào tĩnh mạch cảnh trong bên phải. Nó đi qua tĩnh mạch chủ trên
và vào trong tĩnh mạch chủ dưới. Các cổng hút (siphon port), hay cổng rút máu
(drainage port) nằm ở đầu của ống thông trong IVC. Sử dụng siêu âm tim qua thực
quản, ống thông được điều chỉnh để cổng trở về (return port) được đi qua van ba
lá. Điều này giúp giảm nguy cơ tuần hoàn quẩn (recirculation).
ECMO VV
hỗ trợ hô hấp như thế nào
Cách tốt nhất để
hình dung ECMO VV là coi toàn bộ mạch như một phần mở rộng của nhĩ phải. Bình
thường, máu tĩnh mạch trở về nhĩ phải có SvO2 70-80%. Ở bệnh nhân hạ
oxy máu rõ rệt, SvO2 thấp hơn - 50-60% là bình thường. Máu tĩnh mạch
đi qua hệ thống mạch máu phổi, nơi lấy oxy và thải CO2 (và thải
khí). Rõ ràng, nếu bệnh nhân có ARDS nặng, thì ở mức độ này việc trao đổi khí
có thể xảy ra khá hạn chế. Máu có SvO2 50% có thể chỉ tăng lên đến
SaO2 80%, ngay cả khi bệnh nhân đang thở oxy 100% và nhận PEEP ở mức
cao.
Khi ECMO VV được bắt đầu, một số (không phải tất cả) được hút vào trong
tuần hoàn (circuit) ngoài cơ thể. Một bơm đẩy lưu lượng máu 47 L/phút qua màng
trao đổi oxy. Khi dòng máu vượt qua quả trao đổi oxy, hemoglobin trở nên được
bão hòa hoàn toàn và PaO2 có thể tăng cao đến 400-500 mmHg. Khi máu
này, với SaO2 100% được quay trở lại tâm nhĩ phải, nó trộn với máu tĩnh mạch
còn lại và sau đó đi qua tuần hoàn phổi.Nếu một nửa số máu tĩnh mạch có SvO2
60% và nửa còn lại có SvO2 100% (nhờ tuần hoàn ECMO), thì tổng lượng
máu tĩnh mạch trở về đi qua tuần hoàn phổi có SvO2 khoảng 80%. Với
lưu lượng bơm cao hơn, tỷ lệ phần trăm lớn hơn máu tĩnh mạch trở về được oxy
hóa bằng tuần hoàn ECMO, đưa đến SvO2 tổng thể cao hơn. Ở hầu hết
các bệnh nhân, lưu lượng.
ECMO có
thể được tăng lên đến mức tổng SvO2 là 85-90%.
Đây là điều mà
ECMO trở nên thực sự thú vị. Đó cũng là điều bạn phải nhớ các nguyên tắc cung
cấp oxy (xem chương trước của cuốn sách này). Với cung lượng tim và hemoglobin
đủ cao, cung cấp oxy cho mô có thể được duy trì ngay cả khi hạ oxy máu nhẹ đế
nặng. Nói cách khác, một SaO2 80-85% là hoàn toàn tốt miễn là cung
lượng tim đầy đủ và có đủ hemoglobin để vận chuyển oxy liên kết.
Nếu SaO2
từ 80-85% là đủ để hoàn thành công việc (với hemoglobin và cung lượng tim đầy
đủ), và nếu SvO2 có thể được giữ ở mức 80-85% với ECMO VV, thì không
cần trao đổi khí ở phổi nữa. Điều này là một điểm rất quan trọng và là nền
tảng để hiểu tại sao ECMO VV có thể là một biện pháp cứu nguy hiệu quả cho ARDS
nặng. Nếu máu tĩnh mạch có ScO2 là 85% và nó chảy qua phổi, rằng
phổi hoàn toàn không đóng góp gì, thì máu đến tâm nhĩ trái sẽ có SaO2
là 85%. Vì chúng tôi đã xác định rằng SaO2 85% là đủ nếu cung lượng
tim và hemoglobin đầy đủ, thì không cần “đánh phối” với PEEP cao, tần số máy
thở cao, hoặc bất kỳ điều gì thông thường khác được thực hiện cho suy hô hấp
nặng. Thay vào đó, máy thở có thể được đặt trên những gì được coi là “cài đặt
nghỉ ngơi”.
·
Cài đặt máy thở ở trạng thái nghỉ
trong ECMO VV* ·
Thông khí kiểm soát áp lực ·
Tần số 10 nhịp/phút ·
Thời gian thở vào 1.0-2.0 giây, điều
chỉnh cho thoải mái ·
Áp lực thở vào Pinsp 25 cmH2O ·
PEEP 10 cmH2O ·
FiO2 30% |
Trao đổi khí
trong tuần hoàn ECMO là một chức năng của dòng máu qua bộ trao đổi oxy và
dòng khí oxy đi qua màng của bộ trao đổi oxy. Oxy di qua màng được biết như là
khí quét (sweep gas), bởi vì nó “cướp” CO2 từ máu trong màng trao
đổi. CO2 có độ hòa tan cao hơn nhiều so với oxy, và do đó nó có thể
được loại bỏ nhanh chóng bằng cách tăng lưu lượng khí quét. Oxy hóa có thể được
tăng lên bằng cách tăng tốc độ lưu lượng dòng máu qua màng bộ trao đổi oxy. Nói
một cách đơn giản, lưu lượng tuần hoàn ngoài cơ thể kiểm soát oxy hóa, trong
khi lưu lượng khí quét kiểm soát thông khí. Khí quét thường là 2-6 lít/phút.
FiO2 của khí quét ban đầu được đặt ở mức 1.0 để đạt được oxy hóa tốt
nhất cho máu trong tuần hoàn ngoài cơ thể.
Cài đặt ban đầu ECMO VV
•
Lưu lượng máu
trong mạch: 50-60 ml/kg
•
Điều chỉnh lưu
lượng mạch để giữ SaO2 bệnh nhân: 80-85%
Hầu hết thời
gian, một vài hỗ trợ thở máy là cần thiết. Điều này không phải để cung cấp thêm
hỗ trợ trao đổi khí, nhưng thay vào đó là để cải thiện sự thoải mái cho bệnh
nhân và để ngăn ngừa các biến chứng. Nếu bệnh nhân đang phải E CMO VV và sau đó
rút nội khí quản, thiếu bất kỳ áp lực dương nào lên phổi sẽ dẫn đến xẹp và đông
đặc (consolidation) phế nang gần như hoàn toàn. Điều này có thể gây ra suy hô
hấp và thở nhanh đáng kể. Đông đặc phế nang cũng cản trở làm sạch bình thường
chất tiết từ cây phế quản, điều này có thể dẫn đến viêm phổi hoặc áp xe phổi.
Điều đó cho
thấy, kinh nghiệm gần đây với ECMO VV đã chỉ ra rằng khi bệnh nhân hồi phục, họ
có thể dành càng nhiều thời gian hơn cho việc bỏ máy thở. Điều này rất quan
trọng bởi vì nó có nghĩa là vật lý trị liệu và vận động có thể bắt đầu sớm,
ngay cả khi đang điều trị ECMO VV. Điều này dễ dàng hơn nhiều với ống thông hai
nòng đặt qua tĩnh mạch cảnh trong. Mở khí quản sớm nên được xem xét càng sớm
càng tốt để giảm bớt tình trạng an thần và bắt đầu vận động. Không có gì bằng
khi nhìn thấy một bệnh nhân ARDS nặng đi trên hành lang với mạch ECMO đang được
đẩy phía sau anh ta.
Khi bệnh nhân
bắt đầu hồi phúc, FiO2 của khí quét có thể được giảm xuống. Một khí
đã được thiết lập, lưu lượng mạch không nên được giảm - lưu lượng máu thấp hơn
làm tăng nguy cơ của huyết khối trong mạch. Hãy nhớ rằng ECMO VV giống như một
tâm nhĩ phảithự lớn thực sự. Khi FiO2 khí quét giảm , máu chảy qua
bộ trao đổi oxy sẽ nhận ít oxy hơn. Điều này có nghĩa răng tỷ lệ trao đổi khí
xảy ra qua phổi của bệnh nhân đang tăng lên. Một khi FiO2 của khí
quét là 21%, mạch ECMO không đóng góp gì vào quá trình cung cấp oxy cho bệnh
nhân - tất cả đang được hỗ trợ bởi máy thở ở mức độ thấp. Máu chỉ đơn giản là
chảy qua tâm nhĩ phải lớn nhưng không có hỗ trợ oxy hóa. Nếu tình trạng bệnh
nhân chấp nhận được, đã đến lúc rút ECMO.
Đây thường là
phần khó nhất khi sử dụng ECMO VV cho trường hợp suy hô hấp cấp tính nặng.
Trong nhiều năm, ECMO được sử dụng chủ yếu cho trẻ sơ sinh bị hội chứng suy hô
hấp ở trẻ sơ sinh, hít phân su, và thoát vị hoành bẩm sinh. Tuy nhiên, trong
những năm gần đây, ECMO đã trở nên phổ biến hơn đối với trẻ lớn và
người lớn. Dịch cúm H1N1 năm 2009 đã thúc đẩy sự quan tâm đến ECMO, đặc biệt là
ECMO VV, như là một biện pháp cứu vãn. Thử nghiệm CESAR, công bố trên The
Lancet năm 2009, đã chứng minh lợi ích sống còn cho bệnh nhân ARDS nặng
liên quan đến cúm được vận chuyển đến các trung râm ECMO.69 Chỉ 75%
ngẫu nhiên những bệnh nhân thuộc nhóm ECMO thực sự được nhận ECMO, đây là một
phát hiện thú vị. Điều đó có thể lợi ích thực sự là điều trị bệnh nhân ở các
trung tâm dung tích lớn (high-volume center) với chuyên môn và khả năng thích
hợp để cung cấp các liệu pháp cứu vãn, bao gồm ECMO, hơn là việc chỉ
cung cấp mỗi ECMO.
• Suy hô hấp hạ oxy máu với tiên lượng
tử vòng > 50%
a.
PaO2/FiO2 < 150 với FiO2 > 90% mặc dù
chăm sóc tối ưu > 6 giờ
b. Điểm Murray* > 3
mặc dù chăm sóc tối ưu > 6 giờ
• Suy hô hấp tăng CO2 kháng
trị điều trị với pH < 7.15
• Khởi phát cấp tính nguyên nhân suy hô
hấp có khả năng hồi phục
•
Suy
hô hấp tức thì, không đáp ứng với chăm sóc tối ưu (tắc nghẽn đường thở, v.v)
Chống
chỉ định ECMO VV †
•
Thông
khí nhân tạo với cài đặt cao (như FiO2 > 90%, PPLAT > 30, PEEP > 15) trong > 7 ngày
•
Chống
chỉ định với chống đông
•
Giá
trị tuyệt đối bạch cầu trung tính < 500/mm3
•
Tổn
thương CNS nặng hoặc bệnh lý kết hợp không hồi phục khác
•
Tiến
triển bệnh phổi mạn tính đến mức suy hô hấp
Trước khi bắt đầu ECMO VV, cần thực
hiện các bước sau để cải thiện tình trạng của bệnh nhân. Chúng được liệt kê
theo thứ tự ưu tiên, mặc dù không phải tất cả đều được yêu cầu trước khi tiến
hành đặt ống thông ECMO.
1. Thông khí bảo vệ phổi sử dụng thể tích khí lưu thông
4-6 mL/kg PBW, với PEEP tuân theo quy trình nghiên cứu ARDSNet
2. Thông khí xả áp đường thở, với Phigh lên đến 35 cmH2O
3. Tư thế nằm sấp 16 giờ, sau đó nằm ngửa 08 giờ
4. Lợi tiểu hoặc CRRT trong khoảng 105% trọng lượng khô,
nếu huyết động cho phép
5. Nội soi phế quản với liệu pháp hút sạch cây phế khí
phế quản
Nếu bệnh nhân không cải thiện với
liệu pháp đã nói ở trên, nhóm ECMO VV nên được xem xét. Các biện pháp cứu vãn
bổ sung có thể cố gắng bao gồm:
Hiệp hội hỗ trợ sự sống ngoài cơ thể
(ELSO) cung cấp các hướng dẫn chuyên môn sâu rộng về việc lựa chọn và giới
thiệu nó tại website: www.elso.org
* Luôn luôn nhớ rằng mục đích chung
của ECMO VV đối với suy hô hấp là để phổi được nghỉ và phục hồi. Nếu họ trông
thấy đám mờ trắng trên CXR và thể tích khí lưu thông trên các cài đặt này là
< 100mL, thì hãy cứ như vậy! Chống lại sự cám dỗ sử dụng máy thở để trao đổi
khí. Để mạch tuần hoàn ECMO thực hiện công việc.
* http: //cesar.lshtm .ac .uk/murrayscorecalculator.htm
† Chống chỉ định là tương đối, không
phải tuyệt đối; tuy nhiên, sự hiện diện của những tình trạng này có liên quan
với nguy cơ cao của thất bại điều trị.
* Sách được biên dịch bởi: Nguyễn Thành Luận - Khoa ICU, Bệnh viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An. Sách gồm phần giới thiệu - Sinh lý thông khí nhân tạo. Gồm có 27 Chương. Cung cấp: các Hướng dẫn giải quyết nhanh ở chương 1 và chương 2; Sinh lý và kỹ thuật từ chương 3 đến chương 8; Các chế độ thông thường và khái niệm cơ bản từ chương 9 đến chương 15; Các chế độ và khái niệm nâng cao từ chương 16 đến chương 15; Các bước tiếp theo chương 22 và chương 23; Các công cụ hữu ích có trong chương 24 đến chương 27; Với 79 tài liệu tham khảo.
Với mong muốn cung cấp đến mọi người phiên bản Web, Blog chia sẻ trực tuyến không cần lưu trữ. Khi cần có thể đọc trên điện thoại, máy tính hoặc có thể tải về làm tài liệu cho đơn vị.
* Bạn có thể Đọc thêm: