CPAP, PEEP và PEEP tối ưu - CPAP, PEEP and Optimal PEEP - SÁCH VỀ MÁY THỞ - THE VENTILATOR BOOK
Chương 12: CPAP, PEEP, và PEEP tối ưu
CPAP, PEEP, and Optimal PEEP
Khoa học ở
trường trung học, chúng ta đã được dạy rằng hít vào mang oxy đến máu và thở ra
sẽ loại bỏ CO2 ra khỏi cơ thể. Điều này đúng - theo nghĩa hướng dòng
khí. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng trao đổi khí không dừng lại khi bạn ngừng
thở trong một vài giây, hoặc thậm chí là một vài phút. Lưu lượng máu phổi và
trao đổi khí phế nang vẫn diễn ra, trong một vùng không gian gọi là dung tích
cặn chức năng (FRC). FRC là “vùng dự trữ” của phổi để duy trì chức năng chức
năng quan trọng này ngay cả khi quá trình thở bị gián đoạn (như khi bạn bơi
dưới nước hoặc khi bạn bị một miếng thức ăn mắc vào thanh quản). Nếu chúng ta
không có điều này, sẽ rất khó để sống sót! Nếu bạn đang nằm trên giường và ai
đó thả một bao cát lớn nặng lên ngực bạn, ngay lập tức bạn sẽ cảm thấy khó thở.
Điều này là do trọng lượng của bao cát làm giảm hoạt động của cơ hô hấp và nén
FRC. Ngược lại, nếu bạn được cảnh báo về trọng lượng một vài giây trước khi nó
rơi vào người bạn, bạn sẽ hít vào và giữ cơ bụng và ngực của bạn để hạn chế tác
động. Bạn có thể làm điều này ngay bây giờ, chỉ nghĩ về trọng lượng đè lên ngực
của bạn.
Thêm một minh
họa nữa - nếu bạn ngồi trên xe hơi và cúi đầu của bạn ra ngoài cửa ở tốc độ
đường cao tốc, bạn sẽ cảm thấy luồng không khí tràn vào miệng bất cứ khi nào
bạn hít vào và có một sức cản khi bạn thở ra. Thực tế, tác động này, là áp lực
đường thở dương liên tục (CPAP) - một áp lực đặt lên hệ thống hô hấp của bạn
trong cả thì hít vào và thở ra. CPAP được ứng dụng trong thở tự phát.
Áp lực dương
cuối thì thở ra (PEEP) là rất giống nhau, và là thuật ngữ được sử dụng cho áp lực
cố định ứng dụng trong trông khí nhân tạo. Đó không phải là CPAP thực sự, vì áp
lực hít vào từ máy thở cũng dương, nhưng nó hoạt động theo kiểu gần giống như
cách để cố định phế nang đang mở, nếu không sẽ xẹp xuống, duy trì và tăng cường
FRC. Về mặt ngữ nghĩa, PEEP là thuật ngữ được sử dụng trong A/C hoặc SIMV,
trong khi CPAP được sử dụng cho thông khí không xâm nhập hoặc trong thông khí
hỗ trợ áp lực.
Các bệnh lý và tình
trạng giảm FRC và tích tụ dịch hoặc xẹp phế nang bao gồm ARDS, phù phổi, viêm
phổi, viêm phổi hít, đụng dập phổi và chảy máu phế nang. Tất cả tình trạng này
đều dẫn đến suy hô hấp giảm oxy máu do tăng phân số shunt - đơn vị phổi được
tưới máu, nhưng không có thông khí. PEEP có thể được áp dụng để mở các đơn vị
phổi này, hoặc ngăn ngừa chúng xẹp xuống trong thì thở ra và làm giảm phân số
shunt.
PEEP và CPAP
cũng có tác động lợi ích lên chức năng thất trái. Tăng áp lực trong lồng ngực
làm giảm tiền tải ở mức độ nhẹ, điều này có thể giúp cho suy tim sung huyết mất
bù. Điều quan trọng, PEEP và CPAP cũng làm giảm hậu gánh thất trái. Hậu gánh
được biểu thị bởi áp lực xuyên màng phổi qua tâm thất - nói cách khác, áp lực
trong tâm thất (áp lực tâm thu) trừ đi áp lực khoang màng phổi. Khi CPAP và
PEEP làm tăng áp lực trong lồng ngực, đến lượt nó làm tăng áo lực khoang màng
phổi, sự khác biệt giữa áp lực trong tâm thất và áp lực khoang màng phổi giảm
xuống. Điều này có ảnh hưởng tích cực đến chức năng thất trái.
PRESSURE
Với
phổi xẹp hoàn toàn, nó tạo ra một áp lực tăng dần để mở (pop open) các phế
nang. Khi một tiếp điểm đạt được, phổi phồng ra dễ dàng. Điểm mở (pop open)
này được biết như là điểm uốn dưới (LIP) và minh họa PEEP cần để mở và ổn
định phế nang bị ngập nước. Khi
phổi phồng, nó sẽ đạt đến điểm mà tại đó nó mở rộng hòa toàn và việc áp dụng
áp lực thêm nữa cũng không làm tăng thể tích. Đây được biết như là điểm uốn
trên (UIP). UIP đánh dấu điểm mà tại đó phế nang có thể căng phồng quá mức. Hình
vẽ này biểu thị cách tốt để hiểu compliance phổi. Tuy nhiên, trong thực hành
lâm sàng, xác định LIP và UIP ở bệnh nhân thở máy có thể rất khó khăn. |
Theo nguyên tắc
chung, PEEP nên được sử dụng để điều chỉnh tình trạng hạ oxy máu khi x-quang
ngực có đám màu trắng mà lẽ ra nó phải màu đen - nói cách khác, sử dụng PEEP
khi chụp x-quang có thâm nhiễm hoặc đông đặc nhu mô (vùng chứa khí - airspace).
Cài đặt PEEP bằng X-quang ngực
Chest
X-Ray |
Initial
PEEP |
Sáng |
5 cm |
Thâm
nhiễm rải rác |
10 cm |
|
H2O |
Thâm nhiễm
khuyếch tán dày đặc |
15 cm |
|
H2O |
Trắng
cả hai phổi |
20 cm |
|
H2O |
Hầu hết thời gian, khi bạn lần đầu
đặt bệnh nhân thông khí nhân tạo, PEEP sẽ được cài từ 3-5 cmH2O. Về
mặt lý thuyết, điều này sẽ giúp ngăn ngừa xẹp phổi ở các vùng phổi phụ thuộc và
duy trì sự phù hợp thông khí - tưới máu. Trong thực tế, nó thường được thực
hiện vì, tốt, đó là cách nó làm việc! Mức PEEP thấp nói chung không có hại.
Biến chứng chủ yếu của PEEP quá mức
là căng phồng quá mức phế nang dẫn đến suy giảm hồi lưu tĩnh mạch (và tụt huyết
áp) hoặc suy giảm trao đổi khí do đè xẹp giường mao mạch phổi. Giảm hồi lưu
tĩnh mạch thường không xảy ra với PEEP ít hơn 10-12 cmH2O - nếu
huyết áp giảm ở mức PEEP này, bệnh nhân thường giảm thể tích, và phải truyền
dịch. Nếu căng phồng phế nang quá mức ảnh hưởng đến trao đổi khí, nó sẽ ở dạng
tăng khoảng chết (thông khí mà không có tưới máu) - PaCO2 sẽ tăng
(song song với EtCO2 giảm, nếu bạn đang sử dụng nó) và PaO2
giảm.
Bất chấp những gì bạn
nghe thấy, PEEP không phải là nguyên nhân chính gây ra chấn thương phổi liên
quan máy thở (VILI). VILI chủ yếu là do sự căng phồng quá mức của phế nang
trong quá trình thở vào, và là hậu quả quả chấn thương thể tích (volutrauma),
không phải chấn thương áp lực (barotrauma). Thể tích khí lưu thông quá mức, không
phụ thuộc áp lực bơm phồng, có thể dẫn đến tổn thương phế nang, khí phế thũng
(emphysema), tràn khí màng phổi (pneumothorax), và tràn khí trung thất
(pneumomediastinum). Đây là lý do cơ bản phía sau của việc sử dụng thể tích khí
lưu thông sinh lý (4-8 ml/kg) so với trước đây.4
Phần lớn bệnh
nhân suy hô hấp giảm oxy máu có thể được kiểm soát dễ dàng hơn với PEEP trong
khoảng 5-10 cmH2O. Với những bệnh
nhân suy hô hấp cấp tiến triển (ARDS) vừa đế nặng, đòi hỏi một chế độ tích cực
hơn. Điều này được biết như là cố gắng để cài đặt “PEEP tốt nhất” hay là “PEEP
tối ưu” - Đó là, PEEP đạt được oxy hóa và compliance tốt nhất trong khi tối
thiểu nguy cơ tổn thương phổi do thở máy. Nhiều phương pháp tiếp cận lâm sàng
đối với vấn đề tìm “PEEP tối ưu” cho bệnh nhân đã được mô tả trong các tài liệu
y khoa, và mỗi phương pháp có cả người ủng hộ và người không ủng hộ. Như bạn có
thể mong đợi, mỗi phương pháp đều có điểm mạnh và hạn chế của nó, và không có
phương pháp nào là vượt trội hơn phương pháp còn lại (nếu không thì mọi người
sẽ sử dụng nó và bỏ qua những phương pháp khác), Những điều này sẽ được thảo
luận lần lượt.
Các bảng được sử
dụng trong các nghiên cứu ARDSNet có ưu điểm là đơn giản và khả năng
oxy hóa, có thể được đo dễ dàng bằng khí máu động mạch hoặc đo oxy xung mạch.
Hai bảng đã được công bố - một
bảng sử dụng phương pháp PEEP cao và một bảng sử dụng mức PEEP thấp hơn. Hai
phương pháp được so sánh đối đầu trong nghiên cứu ALVEOLI,32 nghiên này không chứng minh cải thiện
kết quả từ cả hai cách tiếp cận miễn là thể tích khí lưu thông bảo vệ phổi là
4-6 mL/kg PBW được sử dụng. Điều này thực sự có lợi cho bác sĩ - nó gợi ý rằng
có thể sử dụng một trong hai bảng, tùy thuộc vào tình trạng của bệnh nhân. Một
bệnh nhân béo phì hoặc mắc hội chứng khoang ổ bụng, giảm compliance của thành
ngực và có thể được hưởng lợi từ chiến lược PEEP cao hơn. Sự chèn ép bên ngoài
phổi, kết hợp với compliance kém của phổi do ARDS, có nghĩa là áp lực thở ra
cao hơn nên được sử dụng để ngăn ngừa xẹp phế nang và mất huy động.
Mặt khác, sử
dụng mức PEEP thấp hơn có thể được chỉ định trong một số trường hợp. Một bệnh
nhân có lỗ rò phế quản phổi, hoặc một người có huyết động không ổn định, hoặc
một người có một bên phổi bị thương nặng hơn bên kia, có thể trở nên tồi tệ hơn
với chiến lược PEEP cao. Vì một bảng không có bất kỳ lợi thế nào đã được chứng
minh so với bàn kia, bác sĩ có thể chọn bất kỳ bảng nào có vẻ phù hợp với bệnh
nhân hơn.
§
Đi lên hoặc xuống trong bảng khi cần
thiết để giữ PaO2 là
55-80 mmHg, hoặc SpO2 là
88-94%.
§
Theo nghiên cứu ALVEOLI,9 không có lợi ích được
chứng minh khi sử dụng bảng này so với bảng kia, vì vậy hãy lựa chọn tùy theo
tình trạng lâm sàng - bệnh nhân với huyết động không ổn định hoặc tràn khí màng
phổi có thể tốt hơn với chiến lược “PEEP thấp”, trong khi bệnh nhân với chấn
thương đụng giập đáng kể thành bụng và ngực hoặc béo phì có thể lợi ích với
chiến lược “PEEP cao”.
§
Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên với 1010
bệnh nhân, chiến lược “PEEP cao” tích cực đồng thời với nghiệm pháp huy động
phế nang có liên quan đến tỷ lệ tử vong 6 tháng cao hơn (65.3% so với 59.9%).33
Những phát hiện này hỗ trợ việc sử dụng chiến lược PEEP thấp hơn ở phần lớn
bệnh nhân ARDS.
|
Thử
nghiệm PEEP giảm dần
Cơ sở lý luận
đằng sau thử nghiệm PEEP giảm dần là phổi của bệnh nhân phải được huy động đầy
đủ nhất có thể bằng cách sử dụng nghiệm pháp huy động CPAP, tiếp theo là giảm
áp lực thở ra theo từng bước cho đến khi sụt giảm oxy hoặc compliance, hoặc cả
hai. Điều này có ưu điểm là dễ thực hiện ở tại giường; Ngoài ra, việc theo dõi
lượng oxy dễ dàng được thực hiện với máy đo oxy xung mạch, và hầu hết các máy
thở sẽ hiển thị compliance động và tĩnh của hệ thống hô hấp.*
Thử nghiệm PEEP giảm dần được tiến
hành như sau. Nhớ rằng bạn đang huy động (recruit), giảm (reduce), và huy
động (recruit)
§
Đảm bảo bệnh nhân được an thần đầy đủ.
Thuốc chẹn thần kinh cơ không cần thiết, miễn là bệnh nhân không có nhiều nỗ lực
tự thở
§
Đặt mức CPAP máy thở là 40 cmH2O, không có hỗ trợ áp lực. Giữ mức này
trong 40 giây (40 cho 40). Đây là nghiệm pháp huy động phế nang.
§
Sau nghiệm pháp huy động phế nang, thay
đổi mode máy thở về kiểm soát thể tích với thể tích khí lưu thông 6 mL/kg PBW,
hoặc kiểm soát áp lực với áp lực đẩy 15 cmH2O. Cài đặt PEEP là 20
cmH2O. Chú ý compliance của bệnh nhân.
§
Giảm FiO2 10-20% mỗi 5-10
phút cho đến khi SpO2 đạt 88-94%
§ Khi FiO2
đã được giảm, bắt đầu giảm PEEP từng bước 2 cmH2O mỗi 5-10 phút cho
đến khi SpO2 tụt xuống dưới 88%, hoặc cho đến khi Compliance giảm
đáng kể. Một trong hai điều này sẽ cho thấy sự mất huy động phế nang.
§ Lặp lại nghiệm pháp huy động phế nang (40-40) và cài đặt PEEP cao hơn 2 cmH2O so với mức PEEP mà tại đó sự mất huy động xảy ra.
Những bất lợi của thử nghiệm PEEP giảm bao gồm thời gian cần thiết để thực
hiện thử nghiệm đúng cách, nhu cầu an thần sâu và khả năng ảnh hưởng đến huyết
động hoặc hô hấp trong quá trình thực hiện nghiệm pháp huy động. Các thử nghiệm
lâm sàng kiểm tra chiến lược PEEP giảm dần đã phát hiện ra rằng nó có thể cải
thiện khả năng oxy hóa và compliance hô hấp nhưng không chứng minh được bất kỳ
lợi ích nào đối với sự sống sót - trên thực tế, một thử nghiệm tương đối lớn
cho thấy tỷ lệ tử vong trong 28 ngày tăng lên với chiến lược huy động phế nang.33
Điều đó không có nghĩa là nó không nên được thực hiện - nó đơn giản có
nghĩa là có thể không hợp lý khi thực hiện thử nghiệm PEEP giảm dần trên mọi
bệnh nhân thở máy trong ICU. Tuy nhiên, đối với những người bị ARDS từ trung
bình đến nặng, đây có thể là một công cụ hữu ích để tìm một mức PEEP thích hợp.
Nó cũng có thể quan trọng sau khi ngắt kết nối máy thở hoặc sau khi nội soi phế
quản.
Đường
cong áp lực - thể tích (Pressure-Volume curves)
Sử dụng vòng lặp áp lực - thể tích
động để xác định mức PEEP tối ưu rất hấp dẫn. Nhiều máy thở có thể tạo ra vòng
lặp P-V để xem xét, và có vẻ trực quan rằng việc đặt PEEP bằng hoặc cao hơn
điểm mà mức độ compliance của phổi giảm xuống sẽ hữu ích.
Nhánh thở vào của đường cong P-V được
cho là đại diện cho sự thay đổi compliance khi phổi đầy khí. Ban đầu,
compliance (độ dốc của đường cong) là kém, phản ánh áp lực thở vào đáng kể cần
thiết để mở các đơn vị phổi bị xẹp. Khi các đơn vị phổi này mở ra, chúng sẽ
phồng lên nhanh chóng và dễ dàng hơn nhiều. Đây là phần dốc hơn của đường cong
P-V thở vào và nó cho thấy compliace của hệ thống hô hấp đã được cải thiện.
Điểm mà compliance thay đổi (nói cách khác, nơi độ dốc của đường cong thay đổi)
được gọi là điểm uốn dưới (LIP).
Khi phổi tiếp
tục nạp đầy khí, chúng đạt đến điểm mà việc áp dụng thêm áp lực sẽ không làm
phổi nở ra nhiều - điều
này xảy ra ở điểm uốn trên (UIP) và áp lực thở vào vượt quá điểm này được cho
là góp phần làm quá căng phế nang và khả năng tổn thương áp lực.
Về mặt lý
thuyết, việc sử dụng đường cong P-V nhánh thở vào sẽ cho bác sĩ biết mọi thứ
anh ta cần biết về PEEP và áp lực đẩy. PEEP nên được đặt ở hoặc ngay trên điểm
uốn dưới để giữ cho các phế nang không bị xẹp xuống khi thở ra, và áp lực cao
nguyên (nghĩa là áp lực phế nang cuối thì thở vào) phải được giữ ở hoặc ngay
dưới điểm uốn trên để giảm thiểu quá căng và chấn thương áp lực. Điều này sẽ
giữ cho bệnh nhân được thông khí dọc theo phần dốc của đường cong compliance.
Thật không may,
nó không dễ dàng như vậy. Để bắt đầu, việc thiết lập một đường cong áp suất-thể
tích đúng là rất khó. Bệnh nhân không thể thở tự phát, vì nhịp thở do bệnh nhân
bắt đầu làm thay đổi cơ học trong và ngoài lồng ngực. Phong tỏa thần kinh cơ và
an thần sâu thường là cần thiết. Thứ hai, lưu lượng thở vào phải không đổi và
tương đối thấp - sử dụng lưu lượng thở vào giảm dần, trường hợp này trong thông
khí kiểm soát áp lực và thông gió kiểm soát thể tích có điều chỉnh áp lực, sẽ
tạo ra một đường cong không chính xác. Thứ ba, PEEP phải ở mức 0 trong qua
trình nghiệm pháp, điều này có thể gây rủi ro ở bệnh nhân giảm oxy máu nặng.
Thứ tư, và có lẽ quan trọng nhất, đó là lập luận cho rằng ít có ý nghĩa khi cài
đặt áp lực thở ra dựa vào cơ học phổi thở vào.
Dữ liệu lâm sàng
ở người đã chỉ ra rằng mặc dù có một số cơ sở hợp lý cho điểm uốn dưới, sự huy
động phế nang có xu hướng tiếp tục trong toàn bộ chu kỳ thở vào. Ngoài ra, điểm
uốn trên có thể đại diện cho sự kết thúc của quá trình huy động nhưng không
nhất thiết là căng phồng phế nang quá mức. Trong quá trình thở ra, phần lớn là
thụ động, điểm uốn nhịp thở ra xảy ra ở mức áp lực cao hơn nhiều so với điểm
uốn dưới thở vào. Điều này cho thấy rằng quá trình mất huy động phế nang bắt
đầu ở áp lực cao hơn nhiều so với LIP, và trong ARDS, mức này có thể cao tới
20-22 cm H2O.34 Ngoài
ra, việc mất huy động bị ảnh hưởng bởi trọng lực và tư thế của bệnh nhân. Bản
chất không đồng nhất của cả ARDS và việc huy động/ mất huy động phế nang làm
cho việc sử dụng mối quan hệ áp suất - thể tích đơn thuần trở nên khó khăn khi thiết
lập PEEP.
Xác đinh
dựa và áp lực cao nguyên PPLAT
Áp lực cao
nguyên (Pplat) là mức áp lực được
đo ở cuối thì thở vào khi lưu lượng thở vào được giữ ở mức O. Áp lực này phản
ánh sự cân bằng áp lực trong toàn bộ cây hô hấp, và có thể ước đoán được áp lực
phế nang cuối thì thở vào. Nói chung các bác sĩ lâm sàng nên tập trung vào việc
giữ áp lực cao nguyên thấp hơn 30-35 cmH2O, vì đó được cho là giới hạn trên của áp lực phế
nang trước khi tổn thương phổi xảy ra*. Trong
thử nghiệm ExPress, thể tích khí lưu thông được cài đặt ở mức 6 mL/kg PBW, và
mức PEEP được tăng cho đến khi p plat
là 28-30 cmH2O.35 Nhóm đối chứng có PEEP là
5-9 cmH2O. Giả thuyết là điều này sẽ đưa đến huy động phế nang đầy
đủ trong khi ngăn ngừa tổn thương phổi. Thử nghiệm đã chứng minh rằng có sự cải
thiện oxy hóa trong nhóm nhận sự can thiệp; tuy nhiên, không có sự khác biệt về
khả năng sống sót.
Một nhược điểm
của phương pháp này là bệnh nhân ARDS ít nghiêm trọng có thể thực sự nhận mức
PEEP cao hơn. Lấy hai bệnh nhân ARDS, mỗi người có trọng lượng cơ thể dự đoán
là 67 kg. Cải hai bệnh nhân đều được nhận thể tích khí lưu thông là 400ml. Nếu
một bệnh nhân ARDS ít nghiêm trọng và compliance hệ thống hô hấp là 40
mL/cmH2O, do đó sẽ cần một mức áp lực đẩy thở vào 10 cmH2O để cung cấp thể tích khí lưu thông
trên. Thêm mức PEEP 18 cmH2O sẽ nâng
áp lực cao nguyên lên đến 28.
Ở bệnh nhân thứ
2, cho rằng tình trạng bệnh nhân này trầm trọng hơn và comliance hệ thống hô
hấp của anh ta là 20 mL/cmH2O. Điều
này đòi hỏi một áp lực đẩy vào là 20 cmH2O để đạt được thể tích khí lưu thông mục tiêu, và
bằng cách theo protocol này, anh ta sẽ chỉ nhận được PEEP 8 -10 cmH2O để đưa Pplat lên 28-30 cmH2O.
Ví dụ này đơn
giản và có chủ đích bỏ qua thực tế là compliance sẽ thay đổi (tốt hơn hoặc
xấu đi) với việc áp dụng PEEP, nhưng điểm mấu chốt là việc nhắm mục tiêu này
cho một số lượng bệnh nhân riêng biệt, lại áp dụng cho tất cả bệnh nhân thì có
thể có hại. Cũng cần lưu ý rằng phương pháp thiết lập PEEP này không cải thiện
tỷ lệ sống sót khi so sánh với nhóm chứng.
Áp lực xuyên phổi (Transpulmonary
Pressure)
Áp lực xuyên thành, hoặc xuyên phổi,
được định nghĩa là sự chênh lệch giữa áp lực bên trong phế nang và áp lực màng
phổi. Nói cách khác, Áp lực (trong) - Áp lực (ngoài). Trong điều kiện bình
thường, giá trị này khá nhỏ - áp lực phế nang là áp suất khí quyển, hoặc bằng
không, trong khi thở qua thanh môn mở, và áp lực màng phổi dao động từ khoảng
-3 cmH2O cuối kỳ thở ra đến -8 cmH2O cuối kỳ thở vào. Vì áp lực xuyên phổi là sự chênh
lệch giữa hai thành phần trên, nên nó nằm trong khoảng từ 3 (0 - -3) đến 8 (0 -
-8) cmH2O. Đây là yếu tố giúp phổi luôn mở và
hoạt động như một đối trọng với sự đàn hồi của phổi.
Trong quá trình thông khí áp lực dương, áp lực phế nang trở nên dương và nằm trong khoảng giữa áp suất cao nguyên cuối thì thở vào và áp lực cuối thì thở ra (PEEP). Áp lực khoang màng phổi, nếu không thay đổi, vẫn hơi âm. Tuy nhiên, trong những điều kiện nhất định, áp lực khoang màng phổi có thể trở nên dương. Điều này thường xảy ra khi giảm compliance của thành ngực do bệnh lý màng phổi nguyên phát hoặc do chèn ép bên ngoài (tăng áp lực ổ bụng, quá tải thể tích, bệnh lý béo phì hoặc bỏng xung quanh thân trên).
Khi điều này xảy ra, áp suất xuyên phổi giảm.
Lấy hai bệnh nhân ARDS có PEEP đặt là
15 cmH2O. Bệnh nhân đầu tiên không có hạn
chế thành ngực bên ngoài và áp lực khoang màng phổi -5 cmH2O. Áp lực xuyên phổi của anh ta cuối thì thở ra là 20 cmH2O (15 - -5), điều này thỏa mãn duy trì sự huy động phế
nang trong bối cảnh viêm phổi và phù phổi.
Transpulmonary Pressure =
PEEP - Pleural Pressure
Transpulmonary Pressure =
15 - (-5) = 20
Net Pressure Effect Leads
To Alveolar Expansion
|
Bệnh nhân thứ 2, ngoài
ARDS, anh ta cũng có giảm compliance thành ngực do béo phì (BMI 52). Áp lực
khoang màng phổi anh ta là +18 cmH2O, điều đó có nghĩa rằng áp lực xuyên màng phổi cuối thì thở
ra là -3 (15 - (+18)). Hậu quả thực sự này là xẹp phế nang ở cuối mỗi chu kỳ thở.
Phương pháp đo
trực tiếp áp lực trong khoang màng phổi ở bệnh nhân ICU là không thể, do đó áp
lực thực quản được sử dụng như là một sự thay thế. Điều này không có nghĩa
chính xác - bản thân áp lực khoang màng phổi thay đổi từ đáy phổi đến đỉnh phổi
và bị ảnh hưởng bởi tư thế nằm ngửa và nằm sấp, và áp lực thực quản phải chịu
trọng lượng của thành phần trong trung thất.36 Tuy nhiên, nó là hữu ích cho việc xác định PEEP ở
bệnh nhân giảm đáng kể compliace ngực do tác động bên ngoài.
Để đo được áp lực thực quản (Peso),
phải đặt một catheter thực quản có bóng được bơm đầy khí. Chúng có sẵn trên thị
trường thương mại37 và có thể được kết nối với hệ thống theo dõi áp
lực tiêu chuẩn. Máy thở CareFusion Avea® có cổng kết nối với đầu dò áp lực thực
quản và có thể hiển thị áp lực thực quản.
Đặt catheter
thực quản có bóng nên được thực hiện bởi một bác sỹ có đủ khả năng, phù hợp với
hướng dẫn của nhà sản xuất. Độ sâu catheter được đặt có thể được ước lượng bằng
nhân chiều cao cm của bệnh nhân với 0.288. Ở hầu hết các bệnh nhân, vị trí bóng
nên ở một phần ba dưới thực quản. Bơm phồng bóng với 1ml không khí sẽ cho phép
sự thay đổi của áp lực thực quản được phản ánh trên monitor. Sóng áp lực thực
quản nên tăng vừa phải trong thời gian nhịp thở cung cấp bởi máy thở và có độ
lệch âm trong các nhịp thở do bệnh nhân bắt đầu. Áp lực nhẹ lên bụng dẫn đến
tăng áp lực cho thấy vị trí đặt bóng trong dạ dày, và nó nên được rút ra.
Khi bóng catheter thực quản ở vị trí hợp lý, áp lực xuyên phổi cuối khí thở
ra có thể được tính toán:
Một bệnh nhân
với PEEP là 15 cmH2O và Ppso
là 22, áp lực xuyên phổi cuối kỳ thở ra của anh ta la -2 cmH2O. Nói
cách khác, cuối kỳ thở ra, sự nén phổi của anh ra do tăng áp lực khoang màng
phổi đang dẫn đến xẹp phế nang. Trong bối cảnh này, PEEP nên được tăng đến mức
tối thiểu 17 cmH2O để giữ áp lực xuyên phổi cuối kỳ thở ra ở mức 0.
Các thử nghiệm
lâm sàng đánh giá hiệu quả của việc theo dõi áp lực xuyên phổi ở bệnh nhân ARDS
đã chứng minh được cải thiện đáng kể oxy hóa, nhưng không cho thấy được lợi ích
sống còn.38,39 Do đó, kỹ thuật này không khuyến nghị sử dụng thường
quy. Tuy vậy, nó có thể giúp ích, trong việc xác định mức PEEP hợp lý cho bệnh
nhân với tăng áp lực trong ổ bụng và bệnh lý béo phì.
PEEP tối ưu và PEEP đủ tốt
Trong một thở
nghiệm với 51 bệnh nhân ARDS, Chiumello và cộng sự đánh giá các phương pháp
khác nhau để cài đặt PEEP (bảng ARDSNet, mức đích áp lực cao nguyên theo thử
nghiệm ExPress, sử dụng chỉ số time-pressure stress, và qua áp lực xuyên phổi
sử dụng phương pháp đo áp lực thực quản).40 Tất cả các phương pháp đều được đánh giá bằng
chụp CT để xác định sự thay đổi trong việc huy động phổi. Những sự phát hiện
của họ cho thấy rằng phương pháp duy nhất có tương quan với mức độ huy động
toàn bộ phổi và mức độ nghiêm trọng của ARDS là sử dụng bảng PEEP - FiO2.
Các phương pháp khác có liên quan với việc giãn nở nhiều hơn các đơn vị phổi
bình thường mà không mang lại lợi ích tương xứng trong việc huy động các phế
nang bị xẹp.
Nhiều phương
pháp xác định mức PEEP tốt nhất, hoặc tối ưu có một vài điểm chung. Chúng có xu
hướng khó khăn. Chúng xu hướng đưa ra các giả định sinh lý quan trọng nhưng có
thể không có giá trị - ví dụ, giả định rằng áp lực trong phần dưới thực quản
phản ánh chính xác áp lực khoang màng phổi ở toàn bộ bệnh nhân, hoặc giả định
rằng việc huy động phổi là hoàn toàn bằng cách áp dụng điểm uốn dưới của nhánh
thở vào đường cong áp lực - thể tích. Cuối cùng, chúng hầu hết thường tập trung
vào các điểm cuối thay thế có thể không có ý nghĩa. Các thử nghiệm lâm sàng về
các nghiệm pháp khác nhau mô tả việc tìm PEEP tối ưu thường báo cáo cải thiện
oxy hóa hoặc compliance khi so sánh với nhóm đối chứng, nhưng không chỉ ra lợi
ích sống còn.
Có lẽ chúng ta
cần dừng lại việc tìm kiếm PEEP tối ưu. Lich sử y học chăm sóc tích cực đã kiên
định chỉ ra rằng sự cố gắng của bác sĩ lâm sàng để tối ưu các thông số sinh lý
khác nhau thường không cần thiết và thình thoảng có hại. Sự tìm kiếm PEEP tối
ưu có thể không khác. Luciano Gattinoni, một trong những nhà nghiên cứu hàng
đầu trong lĩnh vực này, đã gợi ý vấn đề này. Một PEEP “đủ tốt” duy trì oxy hóa
và huy động phổi mà không ảnh hưởng đến chức năng huyết động và có thể dựa trên
sự kết hợp giữa mức độ nặng của ARDS và lương tri (good sence) của bác sĩ điều
trị.
PEEP đủ tốt41
Mức độ nặng ARDS |
Tỷ lệ PaO2/FIO2 |
PEEP |
Nhẹ |
201-300 |
5-50 cmH2O |
Vừa |
101-200 |
10-15 cmH2O |
Nặng |
< 100 |
15-20 cmH2O |
*
Compliance =
AVolume / APressure
Compliance động trên máy thở = Thể tích khí lưu thông VT/ [áp lực đỉnh thở vào Ppeak -
PEEP]
Áp lực phổi tĩnh trên máy thở = Thể tích khí lưu thông VT/ [Áp lực cao nguyên Pplat - PEEP]
*
Điều quan trọng cần ghi nhớ là không ai thiết lập được áp
lực cao nguyên “an toàn” thực sự, trên mức đó có tổn thương phổi và dưới mức đó tổn thương phổi không
xảy ra. Tuy nhiên, hầu hết các chuyên gia khuyên giữ áp lực cao nguyên bằng
hoặc dưới phạm vi này.
* Sách được biên dịch bởi: Nguyễn Thành Luận - Khoa ICU, Bệnh viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An. Sách gồm phần giới thiệu - Sinh lý thông khí nhân tạo. Gồm có 27 Chương. Cung cấp: các Hướng dẫn giải quyết nhanh ở chương 1 và chương 2; Sinh lý và kỹ thuật từ chương 3 đến chương 8; Các chế độ thông thường và khái niệm cơ bản từ chương 9 đến chương 15; Các chế độ và khái niệm nâng cao từ chương 16 đến chương 15; Các bước tiếp theo chương 22 và chương 23; Các công cụ hữu ích có trong chương 24 đến chương 27; Với 79 tài liệu tham khảo.
Với mong muốn cung cấp đến mọi người phiên bản Web, Blog chia sẻ trực tuyến không cần lưu trữ. Khi cần có thể đọc trên điện thoại, máy tính hoặc có thể tải về làm tài liệu cho đơn vị.
* Bạn có thể Đọc thêm: