Phác đồ điều trị bệnh tim mạch năm 2018 (Phác đồ 20) Phác đồ 20 TẠO NHỊP TIM TẠM THỜI

Xem
Phác đồ 20
TẠO NHỊP TIM TẠM THỜI



I. GIỚI THIỆU
Hầu hết các bệnh tim cấp tính tại khoa hồi sức tim mạch đều có nguy cơ bloc hệ thống dẫn truyền tiến triển và ngưng tim. Do đó tạo nhịp tim kin thời là một trong những kỹ năng cần thiết của bác sĩ tim mạch.
Tạo nhịp tạm được thực hiện đầu tiên qua da bởi Zoll vào 1952 và qua tĩnh mạch bởi Furman năm 1958. Ngày nay kỹ thuật tạo nhịp được cải thiện nhiều.
Mục tiêu của tạo nhịp tim tạm thời là phục hồi khử cực và co bóp cơ tim hiệu quả, bảo đảm cung lượng tim đủ.




II. CHỈ ĐỊNH (THEO HƯỚNG DẦN CỦA HỘI TIM CHÂU ÂU)
Chỉ dịnh tạo nhịp tim tạm thời không rõ ràng như tạo nhịp tim vĩnh viễn
Tạo nhịp tạm thời qua đường tĩnh mạch không được xem là thủ phạm thường quy, chỉ được chỉ định sau khi dùng thuốc tăng tần số tim không hiệu quả.
Khi bệnh nhân có chỉ định đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn, nên cố gắng thực hiện trong thời gian sớm nhất.

2.1. Bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp (HCMVC)
Nhip chậm có triệu chứng hoặc có nguy cơ bloc nhĩ thất độ III sau NMCT
Vô tâm thu hoặc nhịp nhanh thất/rung thất xảy ra sau nhịp chậm.
Rối loạn nhịp chậm sau NMCT ST chênh lên không đáp ứng với atropin: nhịp chậm xoang kèm tụt huyết áp, bloc nhĩ thất độ II (Mobitz 2), hoặc bloc nhĩ thất độ III gây tụt huyết áp hoặc suy tim.

2.2. Trong thủ thuật can thiệp mạch vành qua da: hiếm khi cần
10 nhịp tạm thời khi xảy ra bloc nhĩ thất độ III. Cần xử trí bằng atropin trước (mặc dù hiếm khi có tác dụng).

Tạo nhịp tạm thời dự phòng có thể xem xét ở bệnh nhân nguy cơ cao, cần can thiệp ĐMV phải hoặc ĐMV mũ. Tuy nhiên, không có chỉ định trong trường hợp tắc hoàn toàn.

2.3. Rối loạn chức năng nút xoang
Khi huyết động không ổn định, không đáp ứng với atropin tĩnh mạch.
Trước khi sử dụng các thuốc ức chế nút xoang để dự phòng nhịp chậm sau dùng thuốc.
Giữ tần số tim nhanh trong hội chứng nhịp nhanh-nhịp chậm, vì rung nhĩ có thể khởi phát sau nhịp chậm xoang.

2.4. Dự phòng, chẩn đoán, và cắt cơn nhịp nhanh
Dự phòng: trong nhịp nhanh thất sau ngưng xoang trên bệnh nhân có QT dài sử dụng thuốc chống loạn nhịp và trên bệnh nhân NMCT.
Chẩn đoán phân biệt nhịp nhanh: đặt qua đường tĩnh mạch hoặc qua thực quản để ghi điện tim ở nhĩ, giúp chẩn đoán phân biệt nhịp nhanh phức bộ rộng.
Kích thích vượt tần số trong điều trị cấp nhịp nhanh tái phát nhiều lần, khi điều trị thuốc không hiệu quả. Thường trong các loạn nhịp nhanh trên thất.
Không có chống chỉ định đối với tạo nhịp tạm thời điều trị hoặc dự phòng. Tuy nhiên, vì tạo nhịp không đồng bộ, cạnh tranh với nhịp nội tại, có thể gây rối loạn nhịp ở những bệnh nhân không ổn định về điện học.

III. TẠO NHỊP TIM QUA ĐƯỜNG TĨNH MẠCH (TẠO NHỊP TRONG BUỒNG TIM)
Là phương pháp tạo nhịp đáng tin cậy nhất.

3.1. Tạo nhịp tim một buồng (chỉ đặt một điện cực vào bung tim)
Tạo nhịp thất (VVI) thường được thực hiện nhiều nhất.
• Ưu điểm: thủ thuật đơn giản, thời gian thủ thuật ngắn, ít biến chứng, sử dụng một điện cực.
Nhược điểm: không đồng bộ nhĩ thất, có thể gây “hội chứng máy tạo nhịp”.
Tạo nhịp nhĩ được chỉ định cho bệnh nhân rối loạn chức năng nút xoang có chức năng nút nhĩ thất nguyên vẹn hoặc dùng để cắt cơn nhịp nhanh trên thất.

3.2. Tạo nhịp tim hai buồng
Điện cực được đặt vào hai buồng tim: một ở nhĩ và một ở thất.
Tạo nhịp 2 buồng giúp đồng bộ nhĩ thất, cải thiện cung lượng tim. Nhưng thủ thuật phức tạp, nên đối với tạo nhịp tạm thì thường chỉ đặt một buồng thất.

3.3. Các dụng cụ tạo nhịp tạm qua đường tĩnh mạch (trong hurtng tim)
3.3.1. Điện cực (lead)
2 loại điện cực: loại mềm có bóng và loại không bóng (semi- rigid). Loại không bóng dễ gây thủng tim vì cứng hơn, chỉ được sử dụng khi có màn hình huỳnh quang hướng dẫn. Trong trường hợp cấp cứu, điện cực không có bóng thường được sử dụng, vì điện cực bóng cần dòng chảy để di chuyển vào đúng vị trí.

3.3.2 Máy tạo nhịp ngoài (external generator)
Cho phép điều chỉnh cường độ tạo nhịp, tần số, kiểu tạo nhịp, và độ nhận cảm với nhịp nội tại. Máy tạo nhịp 2 buồng cho phép chọn nhiều kiểu tạo nhịp, có thể thay đổi thời gian nhĩ - thất và thời kỳ trơ.
Các kiểu tạo nhịp ngoài:
Tạo nhịp một buồng theo nhu cầu (VVI, AAI), cố định (VOO, AOO)
Tạo nhịp hai buồng DOO (cố định), DVI (nhận cảm hai buồng, tạo nhịp thất theo nhu cầu) hoặc DDD (nhận cảm và tạo nhịp hai buồng theo nhu cầu).
Máy tạo nhịp cần đặt ở vị trí phù hợp, tránh rơi và làm căng dây điện cực.
 Pin phải được kiểm tra mỗi ngày. Thay pin mới cho mỗi bệnh nhân. Đèn báo nhấp nháy trong thời gian nhận cảm hoặc tạo nhịp là báo hiệu phải thay pin.
Một số máy có chế độ tạo nhịp vượt tần số để cắt cơn nhịp nhanh.

3.4. Thủ thuật
Thủ thuật có thể thực hiện tại giường trong đơn vị chăm sóc tích cực tim mạch hoặc tại phòng thủ thuật có trang bị đầy đủ dụng cụ.
- Dung cụ:
· ng thông để luồn dây điện cực
· Dây điện cực và máy tạo nhịp ngoài
· Monitor, máy đo điện tim
- Chuẩn bị bệnh nhân:
· Bệnh nhân được nằm trên giường chuyên dụng phù hợp với dụng cụ
· Gây mê thường không cần thiết
· Bệnh nhân nằm đầu hơi thấp
· Chọn tĩnh mạch (dưới đòn, cảnh trong, đùi) và bên thực hiện (trái hoặc phải)
· Xác định lại vị trí của điện cực tạo nhịp qua da hoặc các điện cực theo dòi ECG nếu quá gần vị trí tiếp cận
· Rửa tay, chuẩn bị da vùng chích tĩnh mạch, thường sử dụng iod phẫu thuật. Nếu chọn tĩnh mạch dưới đòn hay cảnh trong thì cần chuẩn bị bên đối diện để không phải chuẩn bị lại trong trường hợp chích lần đầu thất bại
· Trải khăn vô khuẩn đủ rộng vào vị trí thích hợp trên vị trí chích tĩnh mạch và cố định với kẹp nếu có thể.
· Gây tê tại vị trí chích, thường dùng lidocain 1%

- Thủ thuật:
Chọc tĩnh mạch: có thể thực hiện được qua đường tĩnh mạch cảnh trong, cảnh ngoài, dưới đòn, trước khuỷu tay, hoặc tĩnh mạch đùi. Vị trí tốt nhất là tĩnh mạch dưới đòn trái hoặc tĩnh mạch cảnh trong phải. Vị trí chọc tĩnh mạch tùy thói quen bác sĩ và mức độ khẩn cấp của thủ thuật.
Tránh chọc tĩnh mạch dưới đòn sau khi sử dụng thuốc tiêu sợi huyết hoặc đang điều trị kháng đông.
Nếu cần đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn, tĩnh mạch dưới đòn bên trái thường được sử dụng, nên chọn tĩnh mạch khác bên để đặt máy tạo nhịp tạm.
Tĩnh mạch cảnh trong phải và tĩnh mạch dưới đòn trái phù hợp trong tình huống cấp cứu, dễ đưa điện cực tạo đến mỏm thất phải mà không cần sử dụng hình ảnh huỳnh quang.
Nếu có màng huỳnh quang, có thể được sử dụng điện cực không bóng. Nếu không, nên chọn điện cực mềm có bóng. Sử dụng điện tim để hướng dẫn vị trí điện cực: trong nhĩ phải cho sóng a lớn hơn sóng v và trong thất phải thì sóng a nhỏ hơn sóng V. Vị trí tạo nhịp thường ở mỏm thất phải.
Cần tạo nhịp nhanh hơn nhịp bệnh nhân 10 lần/phút, sau đó giảm cường độ xuống dần đến khi mất tạo nhịp.
Ngưỡng tạo nhịp là cường độ tối thiểu kích thích thất tạo co bóp. Lý tưởng, ngưỡng tạo nhịp thất <1 mA. Nên đặt cường độ gấp 3 - 5 lần ngưỡng tạo nhịp.
Ngưỡng nhận cảm là khả năng máy nhận được tín hiệu nhịp nội tại. Nên được xác định nếu có nhịp nội tại.
Cố định trên da để tránh di lệch điện cực

3.5.  Biến chứng: khoảng 20%.
Liên quan đến bệnh nhân: nhiễm trùng huyết và thuyên tắc do huyết khí.
3.5.1. Các biến chứng liên quan đến kỹ thuật
Biến chứng liên quan đến chích tĩnh mạch:
Tràn khí và/hoặc tràn máu màng phổi, thuyên tắc khí.

3.5.2 Biến chứng liên quan đến điện cực
Thủng mạch máu lớn, nhĩ phải, hoặc thất phải rất hiếm xảy ra. Nguy hiểm nhất là chèn ép tim, cần được chẩn đoán và chọc hút kịp thời bằng soi tim dưới màn huỳnh quang hoặc siêu âm cấp cứu tại giường.
Điện cực bị di lệch (2 - 5%), thường trong vòng 24 - 48 giờ đầu. Cần phải chỉnh lại vị trí hoặc đặt lại điện cực.
Kích thích cơ hoành: tìm biến chứng này bằng cách tăng ngưỡng tạo nhịp tối đa, chỉnh lại vị trí điện cực nếu cần.
Điện cực sai vị trí được chẩn đoán khi ngưỡng tạo nhịp, nhận cảm không ổn định. Điện cực đi vào tim trái qua thông liên nhĩ hoặc thông liên thất là thường gặp nhất, cần chú ý hình dạng phức bộ QRS trên điện tim; nếu có hình dạng bloc nhánh phải, cần loại trừ trường hợp vị trí điện cực ở thất trái.
Rối loạn nhịp đa dạng, bao gồm nhịp nhanh thất và rung thất là biến chứng liên quan đến điện cực, cần phải sửa lại vị trí điện cực.

3.5.3 Biến chứng liên quan đến chức năng tạo nhịp (Bảng 1 và 2).
Nếu mất tạo nhịp đột ngột cần kiểm tra chỗ tiếp nối với máy tạo nbịp, pin, các khả năng gây nhận cảm quá mức. Nếu nhìn thấy hình ảnh “spike” tạo nhịp, nhưng không tạo được nhịp tim, thử tăng ngưỡng tạo nhịp, chỉnh lại vị trí điện cực hoặc đặt lại điện cực.

Bảng 1. Những nguyên nhân gây mất tạo nhịp*

Thủng
Đầu điện cực di lệch
Gãy điện cực
Lỗi chức năng máy tạo nhịp hoặc hết pin
Vấn đề kết nối máy phát và điện cực
Tiếp xúc kém với nội mạc
Viêm hoặc hoại tử tại chỗ cơ tim
Nhiễm toan do thiểu oxy
Các rối loạn điện giải

*Khử cực và co bóp tổng thể của nhĩ hoặc thất trong đáp ứng với kích thích của máy tạo nhịp.

Bảng 2. Những nguyên nhân nhận cảm sai

Kém*
Quá mức**
Thủng
Điện thế cơ tim
Tín hiệu nhịp nội tại kém
Nhiễu điện từ
Nghẽn đường ra
Ngoại tâm thu
Điện cực bị di lệch
Điện cực bị di lệch
Gãy điện cực
Gãy điện cực
Lỗi máy tạo nhịp hoặc hết pin
Lỗi máy tạo nhịp
Viêm hoặc hoại tử tại chổ vùng cơ tim


*Không nhận cảm được sóng nội tại P hoặc R.
*Nhận cảm tín hiệu không phải của sóng P hoặc sóng R.

IV. TẠO NHỊP QUA DA
Tạo nhịp qua da (hoặc ngoài da) là tạo nhịp tim tạm thời cho trong trường hợp cấp cứu vô tâm thu. Các bản điện cực có thể đặt ở vị trí trước/bên hoặc trước/sau của thành ngực. Vị trí trước/sau thường được sử dụng hơn do có trở kháng thấp nhất. 
Dự phòng trên những bệnh nhân có nguy cơ nhịp chậm có triệu chứng trong NMCT cấp, bệnh nhân đang điều trị tiêu sợi huyết (hạn chế thủ thuật mạch máu xâm lấn)
Nhược điểm: hiệu quả tạo nhịp không chắc chắn, bệnh nhân khó chịu. Do đó, chỉ nên sử dụng khi không có chọn lựa khác, đòi hỏi theo dõi chặt chẽ monitor điện tim và huyết áp.

V. TẠO NHỊP TIM QUA THỰC QUẢN
Tạo nhịp tim qua thực quản được chỉ định ở một số bệnh nhân tại khoa hồi sức tim mạch để chẩn đoán và điều trị rối loạn nhịp. Điện cực được đặt trong thực quản và thành sau của nhĩ.
Điện cực thực quản được sử dụng để tạo nhịp nhĩ và/hoặc để ghi lại điện tim. Tuỳ loại điện cực được sử dụng, có thể đặt qua đường mũi hoặc đường miệng. Cách tiếp cận này hiệu quả trong chuyển nhịp nhanh trên thất như cuồng nhĩ. Kết quả hồi phục nhịp xoang trong 15 – 50 %  trường hợp với cuồng nhĩ. Tạo nhịp thất qua thực quản cũng được mô tả. Tuy nhiên, không thông dụng trong thực hành, vì gây đau  cho bệnh nhân, hiệu quả tạo nhịp không chắc chắn.

VI. TẠO NHỊP HAI THẤT
Tạo nhịp hai thất tạm thời, là chỉ định hiếm gặp, có thể cải thiện hoạt động tim trên bệnh nhân bloc dẫn truyền trong thất và suy tim nặng liên quan đến rối loạn chức năng thất trái.
Điện cực tạo nhịp được đưa qua tĩnh mạch, vào trong tĩnh mạch Mull qua đường xoang vành. Tạo nhịp hai thất có thể có lợi ngắn hạn cho những bệnh nhân sốc tim. Hơn nữa, đáp ứng với kiểu tạo nhịp tạp thời này giúp cho chỉ định tạo nhịp vĩnh viễn 2 buồng thất. Tuy nhiên, kinh nghiệm lâm sàng trong sử dụng tạo nhịp tạm 2 buồng thất là giới hạn.

VII. TẠO NHỊP THƯỢNG TÂM MẠC
phương pháp tạo nhịp tạm thời sau phẫu thuật tim với điện cực được gắn trực tiếp lên thượng tâm mạc và đưa ra ngoài da (thượng vị).
Rất hữu dụng sau phẫu thuật, giảm hiệu quả theo thời gian, có thể không dùng được sau 5-10 ngày.

VIII. HỆ THỐNG ĐƯỜNG HẦM TẠO NHỊP TIM TẠM THỜI
Sử dụng cho bệnh nhân phụ thuộc máy tạo nhịp phải cấy một hệ thống tạo nhịp tạm thời do nhiễm trùng. Hệ thống đường hầm một hoặc hai buồng có thể cấy dưới da với đường hầm điện cực ở phần trước của ngực khoảng 5 cm dưới vị trí chích tĩnh mạch dưới đòn hoặc cảnh trong. Kết nối đến một hệ thống phát nhịp treo trước ngực và có thể lưu lại vài tuần cho đến khi bệnh nhân sẵn sàng cho hệ thống tạo nhịp vĩnh viễn.

IX. KT LUẬN
Bệnh nhân tại đơn vị hồi sức tích cực tim mạch có nguy cao về rối loạn dẫn truyền. Tuy nhiên, tỉ lệ biến chứng cao, tạo nhịp tạm thời đường tĩnh mạch không nên sử dụng thường quy và chỉ được xem như phương pháp cuối cùng khi thuốc tăng nhịp tim không hiệu quả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brignole M, Auricchio A, Baron-Esquỉvỉas G, et ai. 2013 ESC Guidelines oil cardiac pacing and cardiac resynchronization therapy: the Task Force on cardiac pacing and resynchronization therapy of the European Society of Cardiology (ESC). Developed in collaboration with the European Heart Rhythm Association (EHRA). Eur Heart j 2013;34:2281-329.
2. Echt DS, Cowan MW, Riley RE, Brisken AF. Feasibility and safety of a novel technoh for pacing without leads. Heart Rhythm 2006; 3:1202-6.
3. Fitzpatrick A, Sutton R. A guide to temporary pacing. BMJ1992; 304:365-9.
4. Gammage MD. Temporary cardiac pacing. Heart 2000;83:715-20.
5. Ganz LI. Temporary cardiac pacing. Cardiac Electrophysiology Review 1999;2:389 - 92.
6. Harrigan RA, Chan TC, Moonblatt s, et al. Temporary transvenous pacemaker place ment in the emergency department. JEmerg Med2007;32:105-11.
7. Silver MD, N Goldschlager. Temporary transvenous cardiac pacing in the critical care setting. Chest 1988;93;607-13.
8. Steg PG, James SK, Atar D, et al. ESC Guidelines for the management ofacute myocarI ti dial infarction in patients presenting with ST-segment elevation. Eur Heart J 2012;33:2569-619
9. Bulent Gorenek. Temporary pacing. The ESC Textbook of Intensive and Acute Cardiovi H cular Care 2015.26. 230-236.

*** Bạn có thể Đọc thêm:

Phác đồ điều trị bệnh tim mạch năm 2018 (Toàn tập 86 Phác đồ điều trị tim mạch 2018)

Phổ biến trong tuần

Tin mới