Theo dõi bệnh nhân thở máy - SÁCH VỀ MÁY THỞ - THE VENTILATOR BOOK
Chương 7: Theo dõi bệnh nhân thở máy
Theo dõi từng phút từng phút các bệnh
nhân nặng là một phần quan trọng của Đơn vị chăm sóc đặc biệt. Như đã thảo luận
trước đó, tình trạng hô hấp của bệnh nhân có thể được đánh giá bằng khám lâm
sàng, chụp X-quang phổi và khí máu động mạch. Tuy nhiên, những điều này không
được thực hiện liên tục và chúng tôi cần các công cụ cho phép chúng tôi biết
ngay lập tức khi có sự thay đổi hoặc xấu đi tình trạng của bệnh nhân. Oxy xung
mạch (Pulse oximetry) hiện được sử dụng phổ biến để theo dõi quá trình oxy hóa.
Biểu đồ dạng sóng CO2 (thán đồ) (Waveform capnography) cũng có thể
cung cấp một số thông tin chính và rất hữu ích, nhưng nó không được sử dụng cho
mọi bệnh nhân thở máy.
Oxy xung mạch
Oxy xung mạch sử dụng hai bước sóng
gồm ánh sáng - đỏ, với bước sóng 660 nm và tia hồng ngoại, với bước sóng 940
nm. Hemoglobin gắn oxy được ưu tiên hấp thụ ánh sáng hồng ngoại và cho phép ánh
sáng đỏ đi qua các mô; Mặt khác, hemoglobin đã khử oxy, hấp thụ ánh sáng đỏ
nhưng không hấp thụ ánh sáng hồng ngoại. Khi đặt cảm biến trên một lớp mô mỏng
nhưng có mật độ mạch máu cao như đầu ngón tay, dái tai hoặc trán, có thể đo
được tỷ lệ hấp thụ ánh sáng [14]. Điều này được chuyển đổi để hiển thị giá trị
độ bão hòa oxy hemoglobin (SpO2). Nếu cảm biến được áp dụng đúng
cách và được tưới máu đầy đủ, thì giá trị đo được gần đúng với SaO2
được đo bằng máy phân tích khí máu động mạch.
Oxy xung mạch có thể không chính xác
nếu có giảm tưới máu do sốc hoặc co mạch đáng kể, hoặc sốc hoặc thuốc co mạch
như phenylephrine hoặc epinephrine. Nói chung, việc đọc SpO2 không
chính xác do giảm tưới máu hoặc co mạch cũng sẽ có biến thiên sóng mạch
(plethysmograph) kém - nói cách khác, dạng sóng sẽ không được xác định rõ và nó
sẽ không tương quan với mạch của bệnh nhân. SpO2 cũng trở nên kém
chính xác hơn khi giảm oxy máu đáng kể (SaO22 <80%), đặc biệt với
da có sắc tố sẫm màu.
Bất hoạt hemoglobin
(dyshemoglobinemias) bao gồm do CO, methemoglobin, cũng có thể ảnh hưởng đến độ
chính xác của SpO2. Carbon monoxide liên kết chặt chẽ với hemoglobin
và dễ dàng hấp thụ ánh sáng hồng ngoại, dẫn đến SpO2 cao giả
(98-100%), ngay cả khi giảm oxy máu động mạch đáng kể). Mặt khác, methemoglobin
ảnh hưởng đến cả sự hấp thụ hồng ngoại và ánh sáng đỏ và có thể làm thay đổi
SpO2 cho đến đánh giá thấp SaO2 với mức methemoglobin
huyết thấp hơn. Mặt khác, ở mức methemoglobin huyết cao hơn (> 35%), SpO22
có xu hướng đọc 80-85% cho dù PaO2 hay SaO2 là bao nhiêu.
Phân tích khí trong máu bằng
Co-oximetric là cách tốt nhất để chẩn đoán bất thường hemogobin
(dyshemoglobinemias) và để xem PaO2 và SaO2 thực sự là
bao nhiêu. Massimo đã phát triển một máy đo oxy xung mạch không xâm lấn sử dụng
bước sóng ánh sáng bổ sung để hiển thị chính xác phần oxyhemoglobin,
carboxyhemoglobin và methemoglobin.
Có một tình huống mà SpO2
chính xác hơn SaO22 (phép đo ABG). Trong tăng bạch cầu do bệnh bạch
cầu (WBC > 50K) hoặc tăng tiểu cầu quá mức (số lượng tiểu cầu > 1M), bạch
cầu hoặc tiểu cầu đã hoạt hóa sẽ tiếp tục tiêu thụ oxy trong ống tiêm khí máu
trước khi nó được đặt vào máy phân tích, dẫn đến các phép đo PaO2 và
SaO2 thấp giả. Làm lạnh mẫu ABG trên đá lạnh có thể làm giảm điều
này, nhưng nói chung SpO2 chính xác hơn SaO2 khi số lượng
bạch cầu hoặc tiểu cầu cực kỳ cao.
Nguyên nhân của các phép đo oxy xung
mạch không đúng
Thán đồ (capnography - biểu đồ dạng sóng CO2)
Capnometry là phép đo lượng carbon
dioxide thở ra ở dạng số, thường được đo bằng mmHg. Capnography là cùng một
thông tin, nhưng ở dạng đồ họa. Ngoài ra, capnography sẽ hiển thị các kiểu
thông khí. Biểu đồ dạng sóng CO2 đang trở thành một phương pháp được
chấp nhận rộng rãi trong ICU.
Carbon dioxide là sản phẩm chính của
quá trình trao đổi chất và nồng độ CO2 thở ra có thể được sử dụng để đánh giá
tình trạng tuần hoàn và thông khí của cơ thể. Hầu hết (60-70%) carbon dioxide
được vận chuyển trong máu dưới dạng ion bicarbonate - carbonic anhydrase trong
RBC là nguyên nhân chính. 20-30% được liên kết với protein và hemoglobin. Điều
này chỉ ra 5-10% tồn tại dưới dạng carbon dioxide hòa tan, có thể được đo là
PaCO2. Đây là cách đo thông khí thông thường. Capnography có thể
cung cấp lượng CO2 cuối chu kỳ thở (EtCO2), khi được sử
dụng với PaCO2, có thể mang lại một lượng lớn thông tin.
Phân tích thán đồ
A. Đường cơ sở hô hấp: Giá trị này phải bằng không. Phần
này của đồ thị biểu thị khí thở ra không có CO2 - không khí trong
các phần không được thông khí của cây khí quản. Độ cao của đường nền cho thấy
sự thở lại CO2 khí thở ra. Khi đường cơ sở và EtCO2 tăng
lên, điều này thường có nghĩa là cảm biến bị nhiễm bẩn.
B. Pha thở ra mạnh (Expiratory Upstroke): Đây phải là
một dốc lớn, vì nó cho thấy sự thở ra nhanh chóng của CO2 từ phế
nang gần trộn với khí khoảng chết. Khi nó ít dốc hơn, điều này cho thấy thời
gian CO2 đi từ phế nang đến cảm biến kéo dài. Điều này có thể thấy
trong các trường hợp co thắt phế quản và tắc nghẽn không hoàn toàn ống nội khí
quản bởi dịch tiết.
C. Pha thở ra bình nguyên (Expiratory Plateau): Pha này
phải nằm ngang, hoặc gần như vậy. Điểm cuối của pha bình nguyên là EtCO2.
Giai đoạn này cho thấy sự thông khí tối đa của CO2 từ phổi. Hình
bình nguyên dốc lên có thể biểu hiện việc làm rỗng phế nang không hoàn toàn, chẳng
hạn như trong COPD, tắc nghẽn một phần đường thở hoặc tắc nghẽn ống nội khí
quản.
D. Pha đi xuống hít vào: Giai đoạn thứ tư thể hiện việc
hít vào khí không có CO2. Rò rỉ trong hệ thống máy thở hoặc vòng bít có thể
khiến giai đoạn này kéo dài.
Ứng dụng lâm sàng của thán đồ
Bước đầu tiên trong việc giải thích
thán đồ phải là đánh giá sự hiện diện hay vắng mặt của một dạng sóng. Sự vắng
mặt của một dạng sóng chỉ ra một trong hai điều:
1. Không thông khí (nội khí quản vào
thực quản, ống nội khí quản hoặc canuyn mở khí quản bị tuột, tắc ống, ngưng
thở). ĐÂY LÀ TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP. KHẮC PHỤC VẤN ĐỀ.
2. Rủi ro cơ học - sửa chữa thiết bị!
Nhân tiện, điều này chỉ nên được xem xét sau khi bạn đã điều tra kỹ lưỡng # 1.
Cảm biến CO2 có thể bị nhiễm chất tiết nhầy, máu hoặc nước và có thể
bị lỗi. Lỗi thiết bị là một chẩn đoán loại trừ một khi các nguyên nhân nghiêm
trọng hơn đã được loại trừ
Hãy nhớ rằng EtCO2 sẽ
không bao giờ vượt quá, và hiếm khi tương với PaCO2. EtCO2
không phải là chất thay thế cho khí máu động mạch. Biết rằng EtCO2
không bao giờ vượt quá PaCO2 là rất hữu ích - điều đó có nghĩa là
bất kể EtCO2 nào, thì PaCO2 ít nhất cũng cao như vậy. Nó
có thể cao hơn một chút hoặc cao hơn rất nhiều, nhưng nó cao hơn
Ví dụ: nếu một bệnh nhân có EtCO2
là 60, bạn biết rằng PaCO2 ít nhất là 60. Nó có thể là 65 hoặc 105,
nhưng ít nhất là 60. Nếu bệnh nhân cần có PaCO2 trong khoảng 35-40, thì bạn nên
tăng thông khí phút trên máy thở.
Bước tiếp theo là so sánh EtCO2
với PaCO2. Gradient CO2 động mạch - phế nang bình thường
thường là 3-5 mm Hg. Gradient rộng có nghĩa là có những vùng phổi thông khí và
tưới máu không phù hợp với nhau. Hãy xem xét những điều sau nếu có sự khác biệt
lớn giữa PaCO2 và EtCO2:
1. Chức năng tim kém, dẫn đến tưới
máu thấp
2. Thuyên tắc phổi, dẫn đến tăng
khoảng chết
3. ARDS
4. VQ không phù hợp do COPD, viêm
phổi hoặc bệnh lý phổi khác
5. Giảm thể tích máu và/ hoặc xuất
huyết
6. Bẫy khí do căng phổi động
7. Quá căng các phế nang do áp lực
máy thở quá mức
Điều quan trọng không kém là phân
tích các xu hướng thay đổi trong gradient. Một gradient 10 mmHg biểu hiện một
sự thay đổi đáng kể ở một bệnh nhân có gradient PaCO2 - EtCO2
là 4 mmHg ngày hôm qua.
Nhìn vào dạng sóng và biên độ của nó
- một dạng sóng có thể nhận biết được với biên độ thấp thường biểu thị sự gia
tăng đột ngột thông khí khoảng chết. Tuy nhiên, ngay cả khi ngừng tim cũng sẽ
không hạ mức bình nguyên xuống 0 - CO2 trong phổi phải được thải ra
ngoài. Số đọc bằng 0 hoặc gần bằng 0, đặc biệt với dạng sóng bất thường, thường
chỉ ra ETT đặt sai vị trí, tắc nghẽn ống hoặc vấn đề của thiết bị. Dạng sóng có
biên độ giảm dần cho thấy sự sản sinh CO2 đang giảm dần (hạ thân
nhiệt) hoặc giảm lượng CO2 phân phối đến phổi (suy tim). Sự gia tăng
đột ngột ET CO2 xảy ra khi có sự gia tăng đột ngột trong quá trình
sản xuất CO2. Điều này có thể xảy ra với chứng tăng thân nhiệt, sau
một cơn co giật, dùng bicarbonate, tái tưới máu cho một chi do thiếu máu cục
bộ, hoặc ROSC sau khi ngừng tim. Với co thắt phế quản nghiêm trọng và các
nguyên nhân khác làm tăng sức cản đường thở, phế nang không trống hoàn toàn
trong quá trình thở ra. Điều này có nghĩa là hình ảnh thán đồ sẽ không chững
lại như bình thường, và thay vào đó nó trông giống như một chiếc vây cá mập
hơn. Nếu thấy điều này, hãy đánh giá xem bệnh nhân có sức cản đường thở cao
không.
Thán đồ trong hồi sức tim phổi
CPR là một quy trình đòi hỏi phải
tuân theo đúng, nhưng thường tiến hành không khoa học. Thán đồ là một phương
pháp khách quan, rẻ tiền, không xâm lấn để đánh giá sự thành công hay thất bại
của các can thiệp khác nhau. Ngừng tim gây ra một gradient rộng giữa CO2
động mạch và thở ra, do thiếu lưu lượng máu đến phổi. Việc thu hẹp gradient,
được chứng minh bằng EtCO2 tăng, cho thấy tăng tuần hoàn phổi và do
đó làm tăng cung lượng tim. Các nghiên cứu trên động vật và con người đã chỉ ra
mối tương quan giữa EtCO2 và áp lực tưới máu mạch vành, yếu tố dự
báo chính của ROSC (return of spontaneous circulation, sự trở lại của tuần hoàn
tự phát). Nó cũng đã được chứng minh là tương quan với lưu lượng máu não.
Có thể thấy sự gia tăng thoáng qua ET
CO2 khi dùng bicarbonate và epinephrine liều cao. Sự trở lại tuần
hoàn tự phát sẽ tạo ra sự gia tăng đột ngột ET CO2, thường lên đến
40 mm Hg hoặc hơn.
Một ưu điểm chính của việc sử dụng
thán đồ trong CPR là khả năng đánh giá hiệu quả của ép ngực. Sự sụt giảm ET CO2
có thể là do sự mệt mỏi của người cứu hộ. ET CO2 cũng có thể được sử
dụng để hướng dẫn độ sâu và tần số của ép ngực - đây là dữ liệu khách quan và
đáng tin cậy hơn nhiều so với sờ mạch (thường là dòng chảy tĩnh mạch ngược
dòng). Nếu ET CO2 dưới 10 mm Hg, hướng dẫn ACLS của Hiệp hội Tim
mạch Hoa Kỳ đề xuất cố gắng cải thiện chất lượng CPR bằng cách tối ưu hóa ép ngực.
Ngoài ra, dạng sóng có thể nhận biết được (discernable) và ET CO2 có thể phản
ánh sự phân ly cơ điện giả tạo (pseudo-electromechanical dissociation), điều
cần được điều trị bằng thuốc vận mạch và hỗ trợ dịch.
Làm sáng tỏ sự thay đổi của EtCO2
Tăng EtCO2, tăng PaCO2: Giảm thông khí phế nang do an thần quá mức, giảm nỗ lực hô
hấp, hoặc yếu thần kinh cơ. Tăng sản sinh CO2 trong tang thân nhiệt, ngộ độc
giáp, tái tưới máu, ROSC sau ngưng tim, vv.
Giảm EtCO2, giảm PaCO2: Tăng thông khí phế nang do đau, kích động, sốt, vv.
Giảm EtCO2, tăng hoặc không thay đổi PaCO2: Tăng khoảng chết do tắc mạch phổi, suy chức năng tim, chảy
máu, giảm thể tích, căng phồng phổi động với autoPEEP.
|
* Sách được biên dịch bởi: Nguyễn Thành Luận - Khoa ICU, Bệnh viện Hữu Nghị đa khoa Nghệ An. Sách gồm phần giới thiệu - Sinh lý thông khí nhân tạo. Gồm có 27 Chương. Cung cấp: các Hướng dẫn giải quyết nhanh ở chương 1 và chương 2; Sinh lý và kỹ thuật từ chương 3 đến chương 8; Các chế độ thông thường và khái niệm cơ bản từ chương 9 đến chương 15; Các chế độ và khái niệm nâng cao từ chương 16 đến chương 15; Các bước tiếp theo chương 22 và chương 23; Các công cụ hữu ích có trong chương 24 đến chương 27; Với hơn 79 tài liệu tham khảo.
Với mong muốn cung cấp đến mọi người phiên bản Web, Blog chia sẻ trực tuyến không cần lưu trữ. Khi cần có thể đọc trên điện thoại, máy tính hoặc có thể tải về làm tài liệu cho đơn vị.
* Bạn có thể Đọc thêm: