Rối loạn kinh nguyệt liên quan đến rối loạn chảy máu
Theo một nghiên cứu trình bày tại Đại hội Thế giới RCOG năm 2018, các rối loạn về chảy máu như bệnh Von Willebrand (VWD), rối loạn chức năng tiểu cầu (PFD), giảm tiểu cầu và thiếu yếu tố đông máu xảy ra phổ biến hơn trong số các cô gái vị thành niên bị kinh nguyệt chảy máu nặng (HMB).
Theo nghiên cứu của nghiên cứu của tiến sĩ Brooke O'Brien, điều
quan trọng là xác định rối loạn chảy máu ở phụ nữ tuổi vị thành niên do chứng
bệnh về sản khoa và bệnh sản khoa nặng sẽ gây nguy cơ cao, do nguy cơ xuất
huyết trong phẫu thuật sản khoa tăng lên. Tin từ Dịch vụ Phụ khoa Trẻ
em và Thanh thiếu niên Queensland (PAG) tại Bệnh viện và
Dịch vụ chăm sóc Sức khoẻ Trẻ em Queensland Health
Health, Brisbane, Australia.
Sử dụng dữ liệu từ Dịch vụ PAG của Queensland từ
tháng 7 năm 2007 đến năm 2017, các nhà nghiên cứu đã phân tích lại 124
thanh thiếu niên có HMB (14 tuổi và 3 tháng tuổi), trong đó 62,1% (n = 77) được
sàng lọc rối loạn chảy máu và 86,3% = 107) đã trải qua xét nghiệm
thiếu sắt hoặc xét nghiệm thiếu máu. [RCOG 2018, trừu tượng
KO6055]
Nhìn chung, tỷ lệ hiện mắc của rối loạn máu là 35% ở những bệnh
nhân có HMB và điều trị bằng liệu pháp nội tiết tố (n = 96%), tranexamic acid
(n = 87 phần trăm), liệu pháp sắt (n = 70 phần trăm) và kết hợp thuốc tránh
thai thuốc (n = 61 phần trăm).
"HMB là một phàn nàn về phụ khoa phổ biến ở thanh thiếu
niên ... Một tỷ lệ khá lớn các cô gái vị thành niên với HMB đến bệnh viện
PAG sẽ có rối loạn chảy máu và trong nghiên cứu này phù hợp với tài
liệu", O’Brien noted.
Trong số các bệnh nhân HMB có rối loạn chảy máu, kết quả cho
thấy VWD là loại rối loạn chảy máu phổ biến nhất, chủ yếu là type 1 VWD ở mức
30% và tỷ lệ VWD ở mức 22%, tiếp theo là rối loạn tiểu cầu về di truyền khác
chiếm 19%, thiếu cơ thể khỏe mạnh 15%, giảm tiểu cầu chiếm ở mức 11% và thiếu
hụt yếu tố 3%.
Trong 49,5% (n = 53) bệnh nhân được chẩn
đoán thiếu iRon hoặc thiếu máu, tỷ lệ mắc chứng rối loạn chảy
máu cao hơn 70%. Hai trong số những bệnh nhân có rối loạn chảy máu đã được
truyền máu do các đợt HMB liên quan.
O'Brien khuyến cáo rằng “tập chảy máu nghiêm trọng có thể được
hưởng lợi từ liệu pháp đạo, chẳng hạn như desmopressin hoặc yếu tố đông máu cô
đặc và các thuốc này có thể có giá trị trong dự phòng điều trị xuất huyết và
phẫu thuật sản khoa khi phẫu thuật”, nhưng nhấn mạnh rằng những nên được quy
định dưới sự giám sát của nhà điều trị huyết học tùy theo điều kiện.
Cần có nhận thức cao hơn về những điều kiện này, đặc biệt
là VWD và PFD, phải có sự hợp tác chặt chẽ giữa các bác sĩ phụ khoa và các nhà
nghiên cứu huyết học trong một trung tâm chuyên ngành cấp ba để quản lý những
bệnh nhân này. Sự nhận biết sớm và chính xác các rối loạn chảy máu ở trẻ
vị thành niên là rất quan trọng đối với việc quản lý các biến chứng chảy máu và
tối ưu hóa liệu pháp cho HMB.
** Cám ơn bạn đã đọc bài viết!
Nguồn: MIMS Obstetrics
& Gynaecology.